1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

An Dương Vương

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Ledung18, 24/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    An Dương Vương

    Ghi chú nhỏ về An Dương Vương

    Trương Thái Du

    Tháng 1/2007, những bài viết tôi từng giới thiệu trên mạng về cổ sử Việt Nam đã được NXB Lao Động chi nhánh TP HCM mua bản quyền in thành sách dưới nhan đề ?oCổ sử Việt Nam ?" Một cách tiếp cận vấn đề?. Vì bản tính nóng vội và ẩu tả cố hữu của một người tìm hiểu lịch sử nghiệp dư tùy hứng, tôi đã không nhuận bổ được gì thêm vào hình tượng An Dương Vương trước khi bàn giao bản thảo. Điều đó khiến tôi có cảm giác chưa trọn vẹn với quyển khảo cứu đầu tay của mình.

    Trước đây tôi đã đặt dấu hỏi về âm mưu thực dân của đế quốc Hán, liên quan đến sự giải thích thuật ngữ Giao Chỉ trong sách Tàu rất mù mờ và khác xa logic thực tế. Nếu khả năng này có thật, thì hiển nhiên âm mưu ấy không thể đơn độc, nó ắt phải thuộc về một hệ thống. Kết quả là, hệ thống này không đời nào bỏ qua hình tượng An Dương Vương.

    An Dương Vương được xem là vua khai quốc Âu Lạc nên trước tiên tôi nhắc lại mấy vấn đề về Âu Lạc trong quyển sách giới thiệu ở trên: Âu Lạc là kí âm Đất nước, Xứ sở của người Việt bằng Hán tự. Người Việt ở Phiên Ngung, người Việt dưới mé sông Hồng, hay người Việt tại đất Mân đều gọi nơi mình sống là Âu Lạc. Cũng có thể xem Âu Lạc là tên bằng tiếng Việt của nước Nam Việt. Khi Tư Mã Thiên viết Tây Âu Lạc, ông ta hàm ý phía tây Phiên Ngung. Tất cả những gợi ý này được tôi rút ra từ cách dùng từ Tây Âu Lạc và Âu Lạc trong Sử Kí của Tư Mã Thiên.

    Câu hỏi ở đây là: Tại sao trong mạch Sử Kí, Âu Lạc là một vùng đất khá rộng lớn. Các sách ra đời sau Sử kí lại dần dần giới hạn Âu Lạc và gắn nó với An Dương Vương .

    Phải chăng muốn đồng hóa một dân tộc, đầu tiên nên cố gắng xóa sạch kí ức phát tích và nguồn cội của chính dân tộc đó? Thực thi phương châm này, đế quốc Trung Hoa đã không ngừng thu hẹp thuật ngữ Âu Lạc trong địa lí hành chính cũng như sách vở?

    Sử Kí hoàn toàn không nói về An Dương Vương, song có đề cặp đến Tây Âu Lạc, Tây Vu Vương. Cùng thời với Sử Kí có Hoài Nam Tử của Lưu An chép quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống bị Đồ Thư giết. Hán Thư tổng hợp Sử Kí và Hoài Nam Tử đã xem Tây Âu Lạc là Tây Âu khi rút gọn Tây Âu Lạc thành Tây Âu.

    Tài liệu đầu tiên nói về An Dương Vương là Giao Châu Ngoại vực kí (TK IV) nhưng do sách này đã thất truyền nên chúng ta chỉ có thể tham khảo lời dẫn ở sách Thủy Kinh Chú (TK VI). Sách thứ hai trên cùng chủ đề là Quảng Châu Kí (TK V), được dẫn ở Sử kí sách ẩn (TK VIII). Hai sách này nội dung như nhau: Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân lợi dụng mùa nước mà cày cấy. Dân gọi là Lạc dân. Có Lạc vương, Lạc hầu. Quận huyện có Lạc tướng. Sau con vua Thục đem quân đánh chiếm, xưng là An Dương Vương. Sau nữa úy Đà thu phục An Dương Vương.

    Sử kí sách ẩn còn ghi thêm: Âu Lạc tức Giao Chỉ và Cửu Chân.

    Xâu chuỗi dữ liệu này, tôi xin đề nghị một hướng giải mã mối nối thực - ảo mang tên An Dương Vương: Dịch Hu Tống chết, nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã quật khởi kháng chiến và giết được Đồ Thư. Không lâu sau, Triệu Đà bắt đầu dòm ngó sang hướng tây. Trước nguy cơ bị thôn tính, quân trưởng An Dương Vương đã liên kết các bộ lạc Tây Âu Lạc, xưng vương. Triệu Đà thất bại trong việc thôn tính Tây Âu Lạc bằng quân sự nên quay ra dùng kế li gián. Tay chân của An Dương Vương ăn của đút lót, đánh đuổi vua rồi xưng vương, chịu sự giám sát của Triệu Đà. An Dương Vương cùng một số quí tộc di tản bằng thuyền qua cửa biển Hợp Phố xuống đồng bằng sông Hồng, sông Mã. Năm 111 TCN Hán Vũ Đế xâm lăng Nam Việt. Tây Vu Vương toan chống lại thì bị Hoàng Đồng (nguyên tả tướng của triều đình Phiên Ngung được cử qua giám sát Tây Vu Vương) thủ tiêu. Truyền thống ?odi tản? của người Âu Lạc vẫn diễn tiến sau khi bọn Việt gian Tô Hoằng và quan lang Đô Kê chặn bắt thuyền của Lữ Gia và Kiến Đức.

    Hai lần di tản năm 179 và 111 TCN ấy, ngoài con người, văn hóa của Âu Lạc cũng đã di tản xuống phương nam. Thời gian xóa nhòa mọi thứ, biến một phần những chi tiết thực tế thành cổ tích truyền từ đời này sang đời khác. Đó là lí do tại sao An Dương Vương trong kí ức dân tộc Việt Nam có một phần rất thực, trùng khớp với tín sử.

    Sau chín thế kỉ, từ ngày Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt. Sách vở Trung Quốc đã rút vùng đất Âu Lạc rộng lớn xuống thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Dưới ảnh hưởng của hệ thống xuyên tạc ấy, quyển sách sử đầu tiên của dân tộc Việt Nam ghi nhận An Dương Vương như sau :

    An Nam chí lược của Lê Tắc (1335)

    Việt-Vương-Thành, tục gọi là thành Khả-Lũ, có một cái ao cổ, Quốc-vương mỗi năm lấy ngọc châu, dùng nước ao ấy rửa thì sắc ngọc tươi đẹp. Giao-Châu Ngoại-Vực-Ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc-điền tuỳ theo thuỷ-triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc-Dân, người cai-quản dân gọi là Lạc-Vương, người phó là Lạc-Tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu.

    Vua nước Thục, thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc-Tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc mà tự xưng là An-Dương-Vương. Triệu-Đà cử binh sang đánh. Lúc ấy có một vị thần tên là Cao- Thông xuống giúp An-Dương-Vương, làm ra cái nỏ thần, bắn một phát giết được muôn người. Triệu Đà biết địch không lại với An-Dương-Vương, nhân đó trú lại huyện Võ-Ninh, khiến Thái-Tử Thuỷ làm chước tá hàng để tính kế về sau.

    Lúc Cảo-Thông đi, nói với vua An-Dương-Vương rằng: "Hễ giữ được cái nỏ của ta, thì còn nước, không giữ được thì mất nước".

    An-Dương-Vương có con gái tên là Mỵ-Châu, thấy Thái-Tử Thuỷ lấy làm đẹp lòng, rồi hai người lấy nhau. Mỵ-Châu lấy cái nỏ thần cho Thái-Tử Thuỷ xem, Thuỷ xem rồi lấy trộm cái lẩy nỏ mà đổi đi. Về sau Triệu-Đà kéo quân tới đánh thì An-Dương-Vương bại trận, cầm cái sừng tê vẹt được nước vào biển đi trốn, nên Triệu-Đà chiếm cả đất của An-Dương-Vương. Nay ở huyện Bình-Địa, dấu tích cung điện và thành trì của An-Dương-Vương hãy còn.

    ***

    Tóm lại, hình tượng An Dương Vương trong hiến sử Việt Nam là một tổ hợp phức tạp những ghi chú có chủ ý của sách vở Trung Quốc và lời truyền miệng dân gian. Yếu tố Thục trong truyện An Dương Vương, về sau đến Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã được nhấn mạnh, bằng cách sao chép tích Trương Nghi theo vết rùa bò mà xây được các vòng thành tại nước Thục.

    Rất lạ là, hàng ngàn năm giới viết sử rất hiếm khi nghi vấn độ tin cậy của các tài liệu Trung Hoa, chứ đừng nói đến chuyện nghiêm túc lọc lựa tìm hiểu các vỉa nghĩa kín đáo thể hiện chính sách thực dân phương Bắc. Hiển nhiên lớp lớp sử quan Hoa Hạ không ít người tiết tháo, trung thực như Thôi Trữ, Tư Mã Thiên; nhưng sẽ tuyệt đối hoang đường nếu vận dụng kinh nghiệm dân gian: ?oCon nhà tông không giống lông cũng giống cánh?. Phàn nàn duy nhất hay được nêu ra chỉ gói gọn ở sự kiêu ngạo, kẻ cả của con mắt Trung Hoa khi nhìn sang các nền văn hóa xung quanh mình. Tưởng rằng điều này thức tỉnh suy nghĩ, nhưng ngược lại, nó âm thầm lây truyền, dẫn đến thái độ không đúng mực của chữ nghĩa Việt đối với các láng giềng như Chiêm Thành, Ai Lao, Khơ Me, Xiêm La?

    Như vậy có thể khẳng định, giống mọi dân tộc khác thuở bán khai, lịch sử sơ khởi của người Việt Nam là những câu chuyện thời xưa nửa hư nửa thực, nhuốn màu hoang đường, truyền kể từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tất nhiên nó vẫn phản ánh sự thật khách quan, song ở mức độ rất thấp. Sau khi giành được độc lập, sử gia kết nối hiện thực (đã bị kẻ xâm lược bóp méo) với truyền thuyết. Thành ra cổ sử Việt Nam luôn mang tính hư cấu vừa chủ quan, vừa khách quan và sai lạc với thực tế rất nhiều.

    Tưởng rằng về sau, tư liệu dễ truy cập, các tồn nghi lịch sử dần dần sẽ được giải quyết, hay ít nhất là đi đến chỗ tạm đồng thuận. Tuy nhiên vào thời hiện đại, dưới ảnh hưởng thời tiết chính trị khu vực, cộng với tầm nhìn chưa bao quát và độc lập của ngành sử học, thuyểt ?obản địa? của văn hóa và văn minh Việt Nam lại được đề cao. Đến nay cổ sử Việt Nam đã hoàn toàn lạc đường, hay nói cách khác nó giữ mãi truyền thống là một văn bản chính trị của một triều đại.

    Chính trị và những vấn đề nội hàm luôn có tính phân đoạn bởi các triều đại chưa bao giờ trường cửu. Có thể hình dung lịch sử tựa một dòng chảy đại đồng, hầu như không gãy đứt. Phân kỳ của sử học đơn giản chỉ là sự tiếp nối nhận thức trước ?" sau, mới ?" cũ?

    Sự phối ngẫu gượng ép giữa sử học và chính trị sẽ dần mòn giết chết sử học, sẽ tha hóa sử gia và biến họ thành những chiếc máy xúc đất vô cảm, hăm hở đào cuốc các vỉa thời gian tại những di chỉ khảo cổ.

    Lịch sử là nền tảng cho mọi kiến trúc nhân văn. Riêng dành lịch sử làm giá đỡ vương miện, sẽ khiến các loại kiến trúc nhân văn khác hổng chân và bản thân lịch sử trở nên hèn mọn. Quá trình phân rã, suy đồi của xã hội phải chăng bắt đầu từ đó?

    Thảo Điền
    01.2007

    Ghi chú: Bài đưa lên bị mất foot note
  2. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Sách bán ở đâu sao anh em không thấy?
    Lý thuyết này chỉ mới có TTD đề ra, chưa được coi là 1 chân lý hay tiền đề, chưa được công nhận nên chỉ là võ đoán.
    Tại sao không phải là Mân Việt, Dương Việt mà phải là Nam Việt của Triệu Đà và Đồ Thư dựng lên?
    Nếu thế thì bác nên giải trình rõ quá trình suy luận xem có logic không? Không thì lại giống như chứng minh 0=1 vậy
    Suy luận chủ quan, đặt vấn đề 1 cách khiên cưỡng và mâu thuẫn. Trong khi chưa chứng minh được vế 2 thì khoan khẳng định
    Bác Du viết rất nhập nhằng, nhầm lẫn từ chuyện nọ sang chuyện kia. Chỗ sơ hở của giả thuey61t này là:
    - Không đề cập gì tới nhà nước Văn Lang và các Hùng Vương.
    - Không giải thích được Dịch Hu Tống là ai trong lịch sử VN. Tại sao nhân vật này hoàn toàn vắng bóng trong các tài liệu dân gian VN? Tại sao những sự kiện "bi hùng" như thế này lại bị bỏ quên?
    Cứ theo như bác Du này nhận định thì các Sử gia chính thống VN đã quá mê muội nên không biết nghiên cứu sử liệu để viết sách sử - tính từ cụ Lê Văn Hưu, Trần Thế Pháp, Ngô Sĩ Liên ... trở đi . Nay nhờ có Kỹ sư hàng hải Trương Thái Du nên sử của VN sắp được viết lại rồi, thật là mừng thay ...
    Thương thay kẻ ngộ chữ TTD...
    Ô hô ai tai, 1 kẻ chỉ tự mày mò đọc sách vọc Internet để từ 1 kỹ sư hàng hải chuyển sang "nghiên cứu" lich sử lại có thể lên mặt dạy đời thế này thì nền Sử học VN đã tới ngày thăng hoa rồi, thật vui thay, vui thay ...
  3. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Tôi chỉ xin trả lời câu đầu tiên của bạn:
    Trước khi một vài quyển trong đợt in 1500 quyển sách đã nói đến cửa hàng sách gần nhà bạn nhất, nếu có nhu cầu kiểm tra độ chính xác thông tin hoặc đặt mua sỉ sách, xin bạn liên hệ 1 trong 2 địa chỉ sau:
    1. NXB Lao Động, 85 CMT8, Q1, TP HCM, ĐT 8390970
    2. Nhà sách Hà Nội, 245 NTMK Q1, ĐT 8322047
    Các câu hỏi còn lại của bạn có cách đặt vấn đề không đúng mực, ngôn ngữ không hứa hẹn những trao đổi, thảo luận thân thiện, XIN MIỄN TRẢ LỜI.
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Cám ơn bác Du, em sẽ tìm mua 1 cuốn để xem thử có cái gì mới hơn những gì em đã đọc trên Net hay không? Hy vọng bác sẽ bỏ bớt những lý luận kiểu "gợi cho tôi 1 ý niệm mơ hồ là..." nhé.
  5. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tôi có một giả thuyết (chỉ là giả thuyết thôi nhé) đưa lên các bác thấy thế nào:
    1. Theo truyền thuyết Việt Nam: vua nước Nam Việt là Triệu Đà đánh bại An Dương vương ở thành Cổ Loa, tục truyền có mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ với "nỏ thần", An Dương vương thua trận cầm sừng tê rẽ ra biển.
    2. Theo Sử Kí, Tư Mã Thiên: không chép về An Dương vương mà chỉ chép về Triệu Đà, dùng uy lực và tiền của đút lót để cho các nước Tây Âu Lạc, Mân Việt thần phục.
    3. Theo Hoài Nam vương Lưu An: quân Tần chỉ đến được vùng đất nay là Quảng Tây, Quảng Đông sau khi diệt 2 nước Đông Âu và Mân Việt (Triết Giang, Phúc Kiến ngày nay) mà thôi, chứ chưa bao giờ đến Bắc bộ Việt Nam. Ở Quảng Tây ngày nay, quân Tần giết quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống, người Tây Âu rút chạy vào rừng, bầu người kiệt tuấn lên làm tướng, tổ chức kháng chiến. Cũng theo Lưu An, người kiệt tuấn đó là An Dương vương.
    4. Theo quan điểm của ông Trương Thái Du: An Dương vương xây thành Cổ Loa ở Quảng Tây và là dòng dõi vua nước Thục gốc ở Tứ Xuyên. Nước Văn Lang Tây Giang ở Quảng Tây. Âu Lạc = Đất Nước. Tây Âu Lạc (theo ngôn ngữ của Tư Mã Thiên) = Tây Âu (theo ngôn ngữ của Lưu An), có nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung.
    Từ 4 ý trên và ý kiến của tôi (tài khoản: chauphihwangza) đưa ra trên diễn đàn Văn hiến Lạc Việt, Tử Vi Lý Số (link: http://www.tuvilyso.com/forum/forum_posts.asp?TID=5505&PN=1), tôi có thể đưa ra giả thuyết, để tham khảo, mong tìm về sự thật của quá khứ. Thực ra, lý thuyết này về cơ bản rất giống với quan điểm của ông Trương Thái Du, chỉ có một số chi tiết nhỏ khác mà thôi. Nếu ông Trương Thái Du đọc được bài này, nếu thấy hợp lí ông cứ lấy bản quyền làm tham khảo cho lí luận của mình, tôi sẽ rất lấy làm vui vẻ. Đại ý giả thuyết này là:
    Năm 316 TCN, khi nước Thục bị nước Tần diệt, con cháu họ Khai Minh vua nước Thục chạy loạn xuống trú ngụ ở vùng Quý Châu, dựng nước, đến đời thứ 2 là Dịch Hu Tống. Dịch Hu Tống thường sai con là "Thục vương tử" tên Phán sang đánh nước Văn Lang Tây Giang. Năm 257 TCN, Phán chinh phục được Hùng vương Văn Lang Tây Giang và các lạc tướng. Không biết Dịch Hu Tống và Phán gọi tên nước là gì nhưng sau này sử Việt Nam gọi là Âu Lạc. Tư Mã Thiên gọi là Tây Âu Lạc, Lưu An gọi là Tây Âu. Tôi cũng gọi là (nước) Tây Âu Lạc - tương ứng với vùng đất cai trị của của An Dương vương trong giả thuyết này. Ông Trương đã từng dẫn và kiến giải ý nghĩa của từ Giao Chỉ và những nhầm lẫn vô tình hoặc hữu ý của các sử gia Việt Nam và Trung Quốc suốt 2000 năm qua. Ông Trương đã có dẫn một tài liệu, nói là: "Thời Chu, Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu..." - điều này tôi (Chauphihwangza) có thể kiến giải thêm là: cuối thời Chu (Chiến Quốc), Giao Chỉ tương ứng với vùng đất phía nam nước Sở, đó chính là nước Văn Lang Tây Giang (ở Quảng Tây ngày nay), và có thể tính luôn vùng châu thổ Châu Giang (Quảng Đông ngày nay), đều thuộc Lạc Việt; đến thời Tần là 3 quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng, nước Tây Âu Lạc của An Dương vương nằm trong quận Tượng. Điều này cũng có phần kiến giải vì sao nhà Hán sau khi chiếm nước Nam Việt (phần chính là nước Tây Âu Lạc - một phần của quận Tượng và quận Nam Hải, Quế Lâm thời Tần, tức là 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông ngày nay) đã đổi thành bộ Giao Chỉ; các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam ở phía nam (là Bắc bộ, Trung bộ Việt Nam ngày nay) của bộ Giao Chỉ tiếp tục là khái niệm như thời Đường Nghiêu - Ngu Thuấn.
    Tiếp tục phần chính nói về nước Tây Âu Lạc. Gặp lúc 500000 quân Tần do hiệu uý Đồ Thư lãnh đạo xuống đánh, Dịch Hu Tống bị quân Tần giết. Thái tử Phán là giòng dõi Dịch Hu Tống, lại là người từng chinh phục được Hùng vương và các lạc tướng, có thể nói là người tài giỏi, nên các quý tộc, lạc tướng và người dân tôn (bầu) lên thay, tổ chức kháng chiến và giết được Đồ Thư. Phán dẹp xong quân Tần, xây thành Cổ Loa. Sau này, Hoài Nam vương Lưu An gọi "Thục vương tử" tên Phán là An Dương vương.
    Ở quận Nam Hải, sau khi nhà Tần đổ, Triệu Đà bèn cát cứ, xưng vương, dựng nên nước Nam Việt, sang đánh An Dương vương nhưng gặp thành Cổ Loa và "nỏ thần" - có thể là nỏ liên châu, bắn một lúc nhiều mũi tên, nên xứng đáng được gọi là "nỏ thần" thời ấy nên bị thua. Sau cho con trai Trọng Thuỷ sang cầu hôn với Mị Châu - con gái An Dương vương thăm dò thành Cổ Loa và nỏ thần và dùng tiền của, uy lực mua chuộc các lạc tướng thời trước và chia rẽ nội bộ lãnh đạo, quý tộc nước Tây Âu Lạc. Năm 179 TCN (207 TCN?), vua nước Nam Việt - Triệu Đà đem quân sang đánh An Dương vương. An Dương vương chủ quan, để mất bí mật nỏ thần, ruồng bỏ nhân tài Cao Lỗ, các quý tộc chia rẽ nên bị thua, chạy ra bờ biển Hợp Phố, chém Mị Châu rồi giong thuyền vượt biển (cùng với tàn quân, cận thần trung thành và có thể có dân chúng cũng đi theo), đoàn thuyền An Dương vương cập đến bờ biển Diễn Châu (Nghệ An, Việt Nam ngày nay). An Dương vương mất ở đó, nên tục truyền ở đây có lăng mộ và đền thờ An Dương vương. Vua nước Nam Việt chiếm xong nước Tây Âu Lạc rồi cử người cai trị, người này chắc là một lạc tướng hay là một quý tộc cũ bị Triệu Đà mua chuộc, phong tước hiệu cho (là Tây Vu vương).
    Năm 111 TCN, nhà Hán xâm chiếm nước Nam Việt - bấy giờ vua nước Nam Việt là Triệu Kiến Đức. Hiệu úy tư mã Tô Hoàng hàng Hán bắt được vua nước Nam Việt, được phong làm Hải Thường hầu. Quan lang (Nam) Việt là Đô Kê bắt được tể tướng Lữ Gia, được phong làm Lâm Thái hầu. Thương Ngô vương Triệu Quang nghe quân Hán đến, cùng quan huyện lệnh huyện Kê Dương tên là Định tự quyết định đi theo nhà Hán. Tây Vu vương (đến đây có thể là thế hệ thứ 2, thứ 3 rồi) chống Hán thì bị tả tướng Âu Lạc là Hoàng Đồng sát hại, Hoàng Đồng hàng Hán, được phong làm Hạ Lệ hầu. Quan giám quân quận Quế Lâm tên là Cư Ông dụ người Âu Lạc đi theo nhà Hán. Lí giải vì sao lại có từ "Âu Lạc" ở trên (theo Sử Kí, Tư Mã Thiên): Quân Hán tuy đánh chiếm nước Nam Việt, các vua quan nước Nam Việt phần lớn đều bị thua, có kẻ ra hàng, nhưng không phải là không có kẻ chống đối, người Âu Lạc chắc chắn cũng chống lại. Người Âu Lạc (đồng nghĩa với nước Âu Lạc của An Dương vương ở Bắc bộ Việt Nam) có thể không theo nhà Hán, Cư Ông làm giám quân quận Quế Lâm (Quảng Tây ngày nay), có lẽ đâu lại dụ người Âu Lạc ở xa thế? Nếu dụ người Âu Lạc ở mé sông Hồng (ở Bắc bộ Việt Nam) thì phải là giám quân, hay là quan lang, lạc tướng ở đó dụ chứ không phải nhờ đến Cư Ông. Với lại, Tư Mã Thiên thủa hàn thuyên đi du lịch khắp vùng Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt... đã từng đi đến vùng Quảng Đông (có thể đến cả Quảng Tây) ngày nay, chứ chưa từng đến Bắc bộ Việt Nam, nên khi viết Sử Kí, ông không biết đến những việc xảy ra ở đó, cho nên khả năng Tư Mã Thiên nghe đến các từ Đất Nước (Âu Lạc) từ những nơi đi qua mà thôi. Điều này cũng có phần kiến giải cho ông Trương, có cơ sở khi nói: "Người Việt ở Phiên Ngung, người Việt dưới mé sông Hồng, hay người Việt tại đất Mân đều gọi nơi mình sống là Âu Lạc. Cũng có thể xem Âu Lạc là tên bằng tiếng Việt của nước Nam Việt".
    Lí giải vì sao người Việt Nam (ở Bắc bộ, Trung bộ Việt Nam) lại có truyền thuyết An Dương vương: Khi Triệu Đà chiếm nước Tây Âu Lạc và nhà Hán chiếm nước Nam Việt, chắc chắn có không ít quý tộc và dân chúng ở 2 nước kia đã di tản xuống Bắc bộ Việt Nam, vì không có chữ viết nên lưu truyền lại các câu chuyện lịch sử cho đời sau bằng truyền miệng, để đến khi hiến sử Việt Nam bắt đầu ra đời, chép kỉ An Dương vương với các câu chuyện lịch sử qua bao thời gian đã được huyền thoại hóa, thêm bớt qua từng giai đoạn lịch sử nên mang nặng tính hư cấu và khó tránh khỏi sai lạc.
  6. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn Chauphihwangza,
    Lâu nay bận quá, chưa trao đổi với bạn vấn đề này. Bạn hãy tiếp tục triển khai ý tưởng của mình thành một bài viết có thể đăng báo, tôi hết mình ủng hộ.
    Cái tên thành Côn Lôn mà Đường Thư nói về tòa thành của An Dương Vương tôi cũng có biết. Côn Lôn trong ngôn ngữ TQ xưa mang nghĩa là rất cao. Thành Cổ Loa ở Đông Anh không thể cao đến nỗi người ta có thể gọi là Côn Lôn được. Bạn nên lưu ý thêm rằng, 2000 năm trước, nước biển còn cao lắm, tàu thuyền có thể dễ dàng đến Đông Anh. Nói cách khác, trừ đi xâm thực, xói mòn theo thời gian, cộng thêm biển rút thì những bức tường đất hiện nay ở Đông Anh rất thấp.
    Khu vực Cổ Loa Đông Anh thực ra là di tích của Kiển Thành do Mã Viện xây. Sau này vùng Hà Nội nước rút, để thuận tiện giao thông thủy, các chính quyền đô hộ đã dời trị sở về Long Biên.
    Theo thông tin ngoài luồng tôi biết, trong giới sử học VN cũng có ít người không công nhận thành của An Dương Vương từng ở Cổ Loa và phủ nhận đề án bảo tồn khu vực này thành một công viên văn hóa lịch sử. (Tuy nhiên họ cũng không đưa ra giả thiết "điếc không sợ súng" như tôi là thành Cổ Loa ở Quảng Tây).
  7. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Bác Du và bác CPHZ không hẹn mà gặp, đều có cùng ý nghĩ rằng vùng đất Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam TQ ngày xưa toàn do dân TQ chạy loạn xuống khai phá, mang theo truyền thuyết đến tuyên truyền mà thành chứ bản địa thì chẳng có gì cả, phải không?
  8. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Không dùa với 2 bác nữa, tôi xin chỉ ra những điểm khiến tôi đã, đang và sẽ chẳng bao giờ đồng ý với các "công trình nghiên cứu" của bác TTD và bác CPHZ:

    1/ Phương pháp lý luận của 2 bác có vấn đề, nhiều chỗ khiên cưỡng, phi logic và không thực tế.

    2/ Nguồn tư liệu của 2 bác không phải là không nhiều nhưng do không có phương pháp tổng hợp hoặc tổng hợp 1 cách chắp vá phi khoa học nên các dẫn chứng trong bài viết đều khá mơ hồ, không cụ thể. Hơn nữa, các bác lại chỉ tìm những tài liệu nào phù hợp với sở thích của mình, không chịu/hoặc không thèm đả động gì tới các công trình nghiên cứu hoặc các nguồn tư liệu bất lợi cho mình nên nhiều khi các bác chỉ phát minh lại cái bánh xe mà không biết, cứ tự hào ta đây là nhất.

    3/ Nghiên cứu Lịch sử là 1 môn khoa học xã hội, nếu chỉ đơn thuần là nghiên cứ sự thực lịch sử thì chẳng việc gì các bác luôn phải thòng vào bài viết của mình những câu như
    Tuy nhiên vào thời hiện đại, dưới ảnh hưởng thời tiết chính trị khu vực, cộng với tầm nhìn chưa bao quát và độc lập của ngành sử học, thuyểt ?obản địa? của văn hóa và văn minh Việt Nam lại được đề cao. Đến nay cổ sử Việt Nam đã hoàn toàn lạc đường, hay nói cách khác nó giữ mãi truyền thống là một văn bản chính trị của một triều đại.

    Chính trị và những vấn đề nội hàm luôn có tính phân đoạn bởi các triều đại chưa bao giờ trường cửu. Có thể hình dung lịch sử tựa một dòng chảy đại đồng, hầu như không gãy đứt. Phân kỳ của sử học đơn giản chỉ là sự tiếp nối nhận thức trước ?" sau, mới ?" cũ?

    Sự phối ngẫu gượng ép giữa sử học và chính trị sẽ dần mòn giết chết sử học, sẽ tha hóa sử gia và biến họ thành những chiếc máy xúc đất vô cảm, hăm hở đào cuốc các vỉa thời gian tại những di chỉ khảo cổ.


    Bằng những gì các bác viết, tôi có thể khẳng định điều mà nhiều thành viên trong Box LSVH và những người nghiên cứu LSVN 1 cách chân chính đã nhận ra từ lâu:

    - Các nhà "nghiên cứu lịch sử" giống bác mang trong đầu tư tưởng "nước lớn", mang trong mình quan điểm "TQ thống trị thế giới", luôn coi VN từ thởi xửa xưa tới nay chỉ là 1 châu phụ thuộc vào TQ, luôn tìm mọi cách để phủ nhận truyền thống dựng nước và giữ nước lâu dời của cư dân bản địa.

    - Hoặc giả những người như các bác luôn mang trong đầu cái tư tưởng yếm thế hay tự tôn dân tộc quá đáng nên mới luôn tìm cách chứng minh dân tộc VN cũng xuất thân từ cùng 1 lò với dân TQ (nói nôm na là anh em họ hàng với cư dân TQ từ thời Kinh Dương Vương) nên mới có thể và được quyền tự hào.

    Các bác luôn phủ nhận mọi thành quả của các nhà sử học Việt Nam, những người nghiên cứu 1 cách có hệ thống, có nhiều điều kiện hơn các bác về tư liệu sách vở, nhiều điều kiện nghiên cứu thực tế. Trong nghiên cứu khoa học, không ai lại làm cái chuyện vô duyên vô lí như thế cả. Đành rằng NCLS theo hướng mới không phải không hay nhưng chọn sai hướng đi thì chẳng thà đừng nghiên cứu còn có ích cho lịch sử hơn.

    Thuốc đắng dã tật, hy vọng 2 bác có thể hiểu những gì tôi chưa nói.
    Các topic mà tôi đã từng bỏ thời gian tranh luận với 2 bác, hy vọng những dữ liệu tôi cung cấp cho 2 bác không phải là "nước đổ đầu vịt"

    - Văn Lang, Việt Thường và nước Việt Câu Tiễn........
    - Trương Thái Du tiếp tục lịch sử

    - Nhà Triệu là một triều đại chính thống của Việt Nam ?

    Thân chào 2 bác.
  9. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Bạn Lonesome thân mến, nếu bạn bàn nghiêm túc như trên thì chúng ta cùng thảo luận trên nền tảng xây dựng. Quyển sách mới của tôi thực ra không có gì mới, toàn những thứ bạn đã đọc và 1 ít bài viết bổ xung sau.
    Quyển sách đề cặp đến rất nhiều vấn đề. Tôi xin phép được đưa ra chủ đề đầu tiên.
    Âu Lạc = Đất Nước.
    Lạc = Nước là công trình của người khác.
    Âu = Đất là ý của tôi.
    Khi tôi đưa hai nghĩa này vào tất cả các thuật ngữ liên quan đến cổ sử VN thì không có thuật ngữ nào trở thành vô nghĩa. Vậy bạn đọc nhiều, biết nhiều sách cổ, bạn tìm giùm tôi từ nào không thích hợp nhé. Bài toán sử học bao giờ cũng chỉ có 1 đáp số, bạn có thể phủ nhận phương pháp của tôi vì tôi chỉ là một kẻ không chuyên, tùy hứng nhưng tôi tin tôi may mắn tìm được cái đáp số duy nhất ấy.
    Ngoài ra, nếu bạn thấy cần trao đổi trên "tiểu chủ đề" nào thì chúng ta cứ lần lượt nêu ra.
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Bác Du, đăng báo thì quả là quá sức với tôi, tôi chỉ đưa lên các bác tham khảo và có ý kiến, và điều quan trọng là cần có thêm các bằng chứng.
    Tôi mới đọc về An Dương vương thấy là người thời Đường gọi thành Cổ Loa là thành Côn Lôn, sực nhớ tôi đọc chuyện Lí Thường Kiệt đánh thành Ung thế kỉ 11 (chủ đề này từng có trên diễn đàn) thấy có nhắc đến một cửa ải có tên là Côn Lôn thời Tống, nay thuộc nội địa thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây. Rồi lại nghĩ đến ý nghĩ của bác, thành Cổ Loa ở Quảng Tây. Đây chỉ mới là giả thuyết, ý tôi muốn nói với bác là nếu thành Cổ Loa ở Quảng Tây thì có thể liên quan đến cái ải Côn Lôn kia, và nằm ở xung quanh vùng đó thôi.
    Tôi vẫn thắc mắc là có phải người thời Đường gọi thành Cổ Loa (sau này là thành Kiển) ở Đông Anh là Côn Lôn, hay là để gọi một cái thành khác. Ít ra Bắc bộ Việt Nam thời Đường nước biển đã rút đi ít nhiều, và chỉ thấy là thành Kiển mà thôi, chứ không có nghĩa thành Cổ Loa do An Dương vương xây lại cao lắm xứng với cái tên Côn Lôn phải không ạ? Như thế theo ý tôi cái tên Côn Lôn thời Đường nói trong Đường Thư là nói đến dấu tích của thành Kiển do Mã Viện xây thời Đông Hán.
    Về thông tin ngoài luồng kia, ít ra ngoài bác ra vẫn có người hồ nghi về thành Cổ Loa An Dương vương ở Đông Anh. Hoặc là truyền thuyết bịa đặt hoăc là nó ở Quảng Tây.
    Bác Lonesome há chẳng biết TQ thời Tần là người 7 nước Chiến Quốc, thời đầu Hán Vũ Đế chỉ đến dãy Ngũ Lĩnh hay sao mà bảo là dân ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam TQ ngày xưa toàn do dân TQ chạy loạn xuống khai phá? Đất Quảng Tây, Quý Châu, Quảng Đông thời Tần có phải Trung Quốc không bác?

Chia sẻ trang này