1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

GPS - Hệ thống định vị toàn cầu

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi gps, 10/12/2002.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    VỀ MẠNG NƠRON NHIỀU LỚP LAN TRUYỀN NGƯỢC DÙNG CHO VIỆC MÔ HÌNH HOÁ
    TÓM TẮT:
    Đây là một modun trong chương trình Nghiên cứu ứng dụng CNTT tích hợp GPS và GIS để kiểm tra hoạt động khai thác khoáng sản phục vụ công tác quản lý điều hành, được tiến hành từ tháng 7 năm 2003, tháng 10 có báo cáo tại Trung Tâm ***AGIS và được Giáo Sư Tiến Sỹ Trần Vĩnh Phước Giám Đốc Trung Tâm nhận xét tốt và cho báo cáo tóm tắt tại Hội Thảo GIS?T9(11/2003), đến tháng 2 năm 2004 chuyễn sang phục vụ Cơ sở dữ liệu Điện và Công Nghiệp và từ tháng 8 năm 2004 đến nay thì không còn thực hiện nữa. Về phần cứng đầu tiên nghiên cứu trên GPS hiệu Trimble-5800, sau đó vì không được duyệt kinh phí nên chuyễn kiểm tra nhanh bằng GPS hiệu Gamin-76S và xữ lý hậu kỳ trên Mạng máy tính có 2 server, trong đó có 1 là XEON và toàn bộ nằm trong 1 Campus Toà nhà Hành chánh UBND Tỉnh; Về GIS thì kế thừa DONAGIS (Hà nội-72); modun nầy được viết đầu tiên cho mục tiêu thử nghiệm mô hình hoá, trong đó có việc chuyễn tọa độ và hệ qui chiếu của DONAGIS về VN-2000, nhưng vì không có kinh phí nên phải chuyễn về UTM, modun được viết cho Mạng Nơron Mờ, không đụng các tham số bí mật quốc gia, qua kiểm tra cho thấy khía cạnh nào đó việc sữ dụng Mạng Nơron nhiều lớp lan truyền ngược cho việc mô hình hóa là thực hiện được.
    PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
    1.SỰ CHUYỄN ĐỖI CƠ SỞ BẢN ĐỒ:
    - Địa hình mặt đất là KHỐI.
    - Đo đạc mặt đất được số liệu điểm độ cao: Chuyễn KHỐI thành ĐIỂM.
    - Từ điểm độ cao tính ra lưới điều hoà các điểm độ cao: Chuyễn ĐIỂM thành ĐIỂM.
    - Từ lưới điều hoà nội suy ra đường bình đồ: Chuyễn ĐIỂM thành ĐƯỜNG.
    Trong máy tính, một mô hình bản đồ đơn giản được diễn đạt như sau: M=f(x, y, z, t).
    (Xem Bản Đồ Học Chuyên Đề-Lê Huỳnh-Lê Ngọc Nam (Chủ Biên) Chương IV, Mục II, Trang 101, NXB-GD.2001).
    2.PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH HOÁ TRUYỀN THỐNG:
    Về thực chất, mô hình hoá là quá trình tìm kiếm hàm giải tích hoặc một thủ tục cho phép sản sinh các vectơ lời giải đầu ra (output) Y gồm n biến tương ứng với một vectơ đầu vào (Input) X gồm m biến.
    Các mô hình dạng nầy thường thỏa mãn điều kiện là: Đối với sự thay đổi nhỏ của vectơ vào chỉ tạo ra sự thay đỗi nhỏ của vectơ ra. Việc xác định mô hình dựa trên một tập hữu hạn các số liệu thực nghiệm {X,Y}. Các số liệu thực nghiệm nầy được đo theo một kế hoạch hoá thực nghiệm nhất định.
    Các kỹ thuật mô hình hoá thông thường cho một quá trình đòi hỏi các dạng hàm toán học phải được biết trước hoặc rút ra từ lý thuyết của quá trình hoặc nhờ đoán theo kinh nghiệm. Đối với mỗi biến của vectơ ra Y phải xây dựng một hàm fi
    Y1=Fi(X1, ? , XmA11, ?, A1p)
    ?????????????.
    Yn=Fn(X1, ? , XmAn1, ?, Ans)
    Trong đó: Aij là các tham số chưa biết của mô hình.
    Khi xây dựng mô hình phải chỉ rõ số lượng các tham số cũng như vị trí của chúng trong các hàm fi. Việc xác tất cả các tham số Aij dựa trên sự phù hợp giữa giá trị tính toán và giá trị thực nghiệm cho cùng một vectơ vào. Phương pháp bình phương tối thiểu thường được dùng cho quá trình nầy. Mô hình sẽ dự báo tốt nhất khi các số liệu thực nghiệm được phân bố đều trong toàn bộ không gian biến số đầu vào với mật độ thoả đáng.
    Dể nhận thấy đối với các quá trình phức tạp khi số lượng biến đầu vào và đầu ra tăng lên việc tìm kiếm, xác định một mô hình như vậy hoàn toàn không đơn giản.
    3.PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH HOÁ BẰNG MẠNG NƠRON NHIỀU LỚP LAN TRUYỀN NGƯỢC:
    (Back-propagation neural network for modeling)
    Mạng Neural nhiều lớp lan truyền ngược là một giải pháp hữu hiệu cho việc mô hình hoá, đặc biệt đối với các quá trình phức tạp hoặc cơ chế chưa được biết rõ ràng . Nó không đòi hỏi bất kỳ sự hiểu biết trướcvề các dạng hàm cũng như các tham số. Thực tế nó hoạt động như một hộp đen. Với một số đủ lớn các trọng số (weight) mạng hoàn toàn có đủ độ tự do để biểu diển mối quan hệ giữa các đại lượng vào và ra. Mạng sữ dụng tập số liệu thực nghiệm cho quá trình học hay quá trình điều chỉnh các trong số. Việc xác định mô hình đơn giản là lựa chọn một cấu trúc mạng và cho mạng học số liệu. Các thông số sau quá trình học dùng để đánh giá chất lượng của mạng. Quá trình học có thể lâu song một khi đã ổn định, việc dự báo trở nên rất nhanh.(Hệ Mờ và Ứng dụng. NXB-KT.1998, Phần 4, trang 366).
    ???. Còn tiếp
  2. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Từ điển thuật ngữ và Tài Liệu GIS tiếng Việt:
    http://www.nea.gov.vn/html/phobienkienthuc/allGIS.htm
    Từ điển thuật ngữ và Tài Liệu GPS:
    http://www.gmat.unsw.edu.au/snap/gps/glossary_a-c.htm
    Creating Shapefiles from Data Tables:
    http://www.geology.buffalo.edu/courses/gly560/Lessons/volcanoeslesson/volcanoeslesson.htm
    Tài Liệu Mạng Neural fuzzy:
    http://www.geovista.psu.edu/sites/geocomp99/abstracts.htm
    "Phần Tích hợp GPS và GIS mình đang viết lại tài liệu và giao diện xữ lý cho dễ hiểu và dễ dùng"
    GIS Data Modeling and ANALYSIS
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.1 Introduction
    This section gives data modelling, data processing, data conversion, data analysis, and data visualization in GIS.
    4.2 GIS defined
    4.3 GIS data modelling
    4.4 GIS data models conversion
    4.5 GIS data analysis
    4.6 GIS data visualization
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.2 Geographical Information Systems (GIS)
    GIS is a special-purpose digital database in which a common spatial coordinate system is the primary means of reference. Comprehensive GIS require a means of:
    Data input, from maps, aerial photos, satellites, surveys, and other sources
    Data storage, retrieval, and query
    Data transformation, analysis, and modelling, including spatial statistics
    Data reporting, such as maps, reports, and plans
    Kenneth E. Foote and Margaret Lynch make three observations should be made about this definition: First, GIS are related to other database applications, but with an important difference. All information in a GIS is linked to a spatial reference. Other databases may contain locational information (such as street addresses, or zip codes), but a GIS database uses geo-references as the primary means of storing and accessing information.
    Second, GIS integrates technology. Whereas other technologies might be used only to analyse aerial photographs and satellite images, to create statistical models, or to draft maps, these capabilities are all offered together within a comprehensive GIS.
    Third, GIS, with its array of functions, should be viewed as a process rather than as merely software or hardware. GIS are for making decisions. The way in which data is entered, stored, and analysed within a GIS must mirror the way information will be used for a specific research or decision-making task. To see GIS, as merely a software or hardware system is to miss the crucial role it can play in a comprehensive decision-making process. For see GIS
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.3 GIS Data modelling
    4.3.1 Data models
    The real world is too complex for our immediate and direct understanding. Geographical variation in the real world is infinitely complex, the closer we look, the more detail we see, almost without limit it would take an infinitely large database to capture the real world precisely, data must somehow be reduced to a finite and manageable quantity by a process of generalization or abstraction, geographical variation must be represented in terms of discrete elements or objects; the rules used to convert real geographical variation into discrete objects is the data model (Tomlin Dana and Klinkenberg Brian, 1999 and Star, J. L. and J. E. Estes, 1990).
    A data model is a conceptual idea, as opposed to the way that the data is actually stored in the computer, which is the data structure. Tsichritzis and Lochovsky (1977) define a data model as "a set of guidelines for the representation of the logical organization of the data in a database... consisting or having named logical units of data and the relationships between them."
    4.3.2 Database
    We create "models" of reality that are intended to have some similarity with selected aspects of the real world. Databases are created from these "models" as a fundamental step in coming to know the nature and status of that reality (DeMers, 1997; Modarres, 1998).
    The Geographical Information System (GIS) has two distinct utilization capabilities - the first pertaining to querying and obtaining information and the second pertaining to integrated analytical modelling. However, both these capabilities depend upon the core of the GIS - the database that has been organized. The importance of the GIS database stems from the fact that the data elements of the database are closely interrelated and thus need to be structured for easy integration and retrieval.
    The GIS database has also to cater to the different needs of applications. In general, a proper database organization needs to ensure the following (Kroenke, 1995; Healey, 1991; NCGIA, 1990): flexibility in the design to adapt to the needs of different users, a controlled and standardized approach to data input and updation, a system of validation checks to maintain the integrity and consistency of the data elements, a level of security for minimizing damage to the data, minimizing redundancy in data storage.
    The database is central to the GIS and contains two main types of data. There are in fact two databases (more or less closely integrated, depending on the system): there is a spatial database, containing Locational data and describing the geography of earth surface features (shape, position), and there is an attribute database, containing certain characteristics of the spatial features.
    The Spatial Database
    The information contained in the spatial database is held in the form of digital coordinates, which describe the spatial features. These can be points (for example, building), lines (for example, roads), or polygons (for example, administrative districts). Normally, the different sets of data will be held as separate layers, which can be combined in a number of different ways for analysis or map production.
    The Attribute Database
    The attribute database is of a more conventional type; it contains data describing characteristics or qualities of the spatial features, using the same examples as in the preceding paragraph, number of persons in the building.
    For more details see databases
    4.3.2.1 The Cartographic Display System
    The cartographic display system is the map-producing tool. It allows the user to extract necessary elements from the database, such as spatial features and attributes, and to rapidly produce map outputs on the screen or other devices, such as high-speed electrostatic plotters or simpler pen plotters, laser printers, or graphic files in popular formats.
    4.3.2.2 The Database Management System
    The database management system is used for the creation, maintenance, and accessing of the GIS database. The system incorporates the tra***ional relational database management system (RDBMS) functions, as well as a variety of other utilities to manage the geographic data. The tra***ional database management system makes it possible to pose complex queries, and to produce statistical summaries and tabular reports of attribute data. It also provides the user with the ability to make map analyses, often combining elements from many layers (Eastman 1992).
    A powerful, relational DBMS is a requisite part of a GIS for handling large quantities of information. It can provide very useful results, but a GIS must have another set of tools to give it the ability to analyse data based on their spatial characteristics. This set of tools corresponds to the geographic analysis system. A variety of analytical tools are available within GIS, extending the capabilities of tra***ional DBMS to include the ability to analyse data based on their spatial characteristics. For details see DBMS
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.3.3 Data input
    The data input and output functions are the means by which a GIS communicates with the world outside. Data input is the procedure of encoding data into a computer-readable form and writing the data to the GIS database. Data input includes three major steps: Data capture, E***ing and cleaning, Geocoding; the later two steps are also called data preprocessing (DeMers, 1998 and Hazelton, 1999).
    Data capture. A GIS cannot analyze the information in a map, if the data are not already in digital form, which the computer can recognize. DeMers (1998) gives methods of getting data into the GIS, Maps can be digitized (hand-traced with at computer mouse) to collect the coordinates of the map features, electronic scanning devices can also be used to convert map lines and points to digital information, field survey, field inventory, keyboard entry, Photogrammetry, automated conversion, data translation and remote sensing.
    Acquiring Spatial Data: We can buy data, steal it, download it over the Internet, or collect it ourselves. Ultimately, someone had to gather it from outside a computer and get it inside. It is the ?~getting it inside?T process that we refer to as acquisition.
    Registration and warping, Before data can be used in GIS, maps and images should be geometrically rectified. The process begins by registering the raw maps and images to known (control) coordinates. The registration record is then used to warp (or georectify) the map or image in need of rectification. The latter step is also known as rubber sheeting.
    Map projection. Map projection is a fundamental aspect of mapmaking. A map projection is essentially a geometric model that transforms the locations of features on the Earth?Ts surface to corresponding locations on a two-dimensional map. It is impossible to project a spheroid perfectly onto a plane; but some projections can preserve shape, while others preserve area, distance, or direction. Different projections are used for different types of maps because each projection is particularly appropriate for certain uses.
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.3.4 Modes of Data
    Phenomena in the real world can be observed in three "modes", namely, spatial, temporal and thematic (Modarres, 1998). The spatial mode deals with variation from place to place; the temporal mode deals with variation from time to time (one slice to another); and the thematic mode deals with variation from one characteristic to another (one layer to another).
    All measurable or describable properties of the world can be considered to fall into one of these modes, viz. place, time and theme (Modarres, 1998). However, an exhaustive description of all three modes is not possible with today''''s technology. Therefore, in reality, when observing real-world phenomena, we usually hold one mode "fixed", vary one in a "controlled" manner, and "measure" the third. For example, using a Census of population we could fix a time (e.g. 1999), control for location using Census zones and measure a theme such as the percentage of persons having higher education.
    While undertaking spatial analysis, holding geography fixed and varying time gives longitudinal data; while holding time fixed and varying geography gives cross-sectional data.
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.3.5 The nature of geographical data
    Geographical position (spatial location) of a spatial object is presented by 2-, 3- or 4-dimensional coordinates in a geographical reference system (e.g. Latitude and Longitude).
    Attributes are descriptive information about specified spatial objects. They often have no direct information about the spatial location but can be linked to spatial objects they describe. Therefore it is often to call attributes "non-spatial" or "aspatial" information (Modarres, 1998).
    Spatial relationship specifies inter-relationship between spatial objects (e.g. direction of object B in relation to object A, distance between object A and B, whether object A is enclosed by object B, etc.).
    Time records the time stamp of data acquisition, specifies life of the data, and identifies the Locational and attribute change of spatial objects (Modarres, 1998).
    Representation data (modelling): After data has been captured it has to be put in database. Modelling is the process of representing the real world in a computer environment. There are two fundamental approaches (ways) to that, either raster or vector. A raster model tells what occurs everywhere at each place in the region covered by the GIS and A vector model tells where everything occurs; it gives a location to every object.
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.3.6 The Choice Between Raster or Vector GIS
    In choosing between the two GIS systems, the most controversial issue is related to processing speed (computational efficiency) and geometric integrity. Vector GIS captures geographic features by means of points, lines and polygons to identify the boundaries of point, linear and areal features. The alternative method, the grid format, divides the area into regular or uniform-sized grid cells with each cell coded with a numeric value to denote the characteristic of the particular cell. The main conceptual difference between vector and raster GIS is that vector GIS stores information about boundaries and implies interiors whereas the raster GIS stores information on the interior of areal features and implies boundaries. Berry (1987) noted that vector GIS''''s data structure creates difficulties when it is used for advanced analytical operations. Generally, vector GIS is said to be most suitable for inventory-oriented processing (Berry, 1987) or when precision is demanded in the measurement of shapes, sizes and attributes (ESRI, 1991a, ESRI, 1998). On the other hand, raster GIS is "best for analysis-oriented processing" (Berry, 1987). In particular, it is useful when the phenomenon being studied is best represented by a continuous surface (Chrisman, 1997, DeMers, 1997). In such situation, each location on the surface is based on the characteristics of a location relative to a known fixed point from an emanating source (ESRI, 1991a). As such, it is inherently suitable for modelling phenomena in which location and its surroundings are more important than the object''''s geometric makeup. Chrisman (1994), however, warned that while the adage "raster is faster, but vector is corrector" is true to a certain extent, it may be diminished under certain circumstances. He pointed out that "the analytical method for overlay is not all that different" between the two types of GIS. There are disadvantages to raster GIS. Large volumes of data are used, network linkages are difficult to establish and projection transformation is time consuming. Other disadvantages noted by Burrough (1986) included the need to use large size cells to reduce data volumes, resulting in loss of information, and the crudeness of raster maps.
    For details see ArcView GIS for Vector based GIS and IDRISI for Windows Demo for Raster based GIS
    --------------------------------------------------------------------------------
    4.3.7 Vector
    Vector systems are built on the premise that we only need to record and deal with the essential points. If there isn?Tt something of significance at a location, don?Tt record anything. Not all locations in space are referenced, and many are simply referenced indirectly, as being inside a polygon. The data structure supports irregular objects and very high resolution. We are interested in the boundaries between objects at least as much as with the objects themselves, often more so. We need precision representation of linear objects, and this need overrides other needs for surface and area modelling of all but the simplest kind. Precision is the watchword in vector GIS, together with making spatial relationship explicit.
    4.3.7.1 The Vector View of the World (vector model)
    A vector based system displays graphical (represents) data as points, lines or curves, or areas with attributes. Cartesian coordinates (i.e., x and y) and computational algorithms of the coordinates define points in a vector system. Lines or arcs are a series of ordered points. Areas or polygons are also stored as ordered lists of points, but by making the beginning and end points the same node the shape is closed and defined. Topological models define the connectivity of vector-based systems. Vector systems are capable of very high resolution (less than or equal to .001 inch) and graphical output is similar to hand-drawn maps. This system works well with azimuths, distances, and points, but it requires complex data structures and is less compatible with remote sensing data. Vector data requires less computer storage space and maintaining topological relationships is easier in this system. Digital line graphs (DLG) and TIGER files are examples or vector data (Koeln et al 1994; and Huxhold 1991).
    4.3.7.2 Topology
    The explicit nature of the relationships in vector GIS requires ?~topology?T, It also allows much easier analysis of these kinds of relationships, especially connectivity between locations (points), which is done with lines.
    If a map is stretched and distorted, some of its properties change, including: Distances, Angles, Relative proximities; other properties remain constant, including: areas remain areas, lines remain lines, and points remain points; Adjacencies and other relationships, such as "is contained in", "crosses" (intersecting arcs) are maintained. Strictly, topological properties are those, which remain unchanged after distortion.
    A spatial database is often called "topological" if one or more of the following relationships have been computed and stored; Connectedness of arcs at intersections, Ordered set of arcs forming each polygon boundary, Adjacency relationships between areas. In general, "topological" implies that certain relationships are stored, making the data more useful for various kinds of spatial analysis.
    For details about Vector based GIS processing see ArcView GIS
    Thân!
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 16:36 ngày 24/09/2004
  3. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    URL: http://www.ctu.edu.vn/colleges/agri/Lecture/gis/gis.htm
    Xin lỗi Anh Minh vì đường link trên không làm việc, đành phải post bài của Anh lên đây.
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
    KHOA NÔNG NGHIỆP
    Bộ môn Khoa học Đất & Quản lý đất đai
    BÀI GIẢNG MÔN HỌC HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐỊA LÝ
    (Geographic Information System (GIS))
    Biên soạn : Võ quang Minh (Msc)
    Mở Đầu
    Bài 1 : Tổng Quan Về Công Nghệ Thông Tin
    Bài 2 : Cơ Sở Địa Lý Học
    Bài 3 : Các Đặc Điểm Của Hệ Thống Thông Tin Địa Lý
    Bài 4 : Tổ Chức Cơ Sở Dử Liệu Của GIS
    Bài 5 : Xử Lý Thông Tin Bản Đồ Trong GIS
    Bài 6 : Các Bài Toán Ứng Dụng Của GIS
    Bài 7 : Các Thành Phần Của Hệ Thống Thông Tin Địa Lý GIS
    Bài 8 : Ảnh Máy Bay, Ảnh Vệ Tinh và Hệ Thống Thông Tin Địa Lý GIS
    Bài 9 : Các Ứng Dụng Của Hệ Thống Thông Tin Địa Lý GIS
    Tài Liệu Tham Khảo
    --------------------------------------------------------------------------------------
    URL: http://www.ctu.edu.vn/colleges/agri/Lecture/gis/Mo dau.htm
    Xin lỗi Anh Minh vì đường link trên không làm việc, đành phải post bài của Anh lên đây.
    GIỚI THIỆU
    Kỹ thuật "Thông tin Địa lý" (Geograpgic Information System) đã bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở các nước phát triển hơn một thập niên qua, đây là một dạng ứng dụng công nghệ tin học (Information Technology) nhằm mô tả thế giới thực (Real world) mà loài người đang sống-tìm hiểu-khai thác. Với những tính năng ưu việt, kỹ thuật GIS ngày nay đang được ứng dụng trong nhiều lãnh vực nghiên cứu và quản lý, đặc biệt trong quản lý và quy hoạch sử dụng-khai thác các nguồn tài nguyên một cách bền vững và hợp lý.
    Trong những năm qua, công nghệ về thông tin địa lý (GIS) đã và đang được nghiên cứu ứng dụng rộng rãi ở nước ta. Công nghệ GIS đã thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực khoa học, các ngành kinh tế quốc dân và các địa phương. Đặc biệt, công nghệ GIS đã và đang được áp dụng trong lĩnh vực điều tra khảo sát tài nguyên thiên nhiên và quản lý môi trường ở nước ta.
    Để đáp ứng được phần nào nhu cầu học tập của các bạn về công nghệ GIS, bài giảng về Hệ thống thông tin địa lý? được xây dựng nhằm cung cấp một số khái niệm nguyên lý cơ bản về GIS và những ứng dụng cụ thể của nó trong lãnh vực điều tra tài nguyên thiên nhiên và quản lý môi trường.
    Định nghĩa
    GIS (Geographic Information System) LÀ MỘT KỸ THUẬT QUẢN LÝ CÁC THÔNG TIN DỰA VÀO MÁY VI TÍNH ĐƯỢC SỬ DỤNG BỞI CON NGƯỜI VÀO MỤC ĐÍCH LƯU TRỬ, QUẢN LÝ, VÀ XỬ LÝ CÁC SỐ LIỆU THUỘC VỀ ĐỊA LÝ HOẶC KHÔNG GIAN NHẰM PHỤC VỤ CHO CÁC MỤC ĐÍCH KHÁC NHAU
    Ngoài ra hệ thống thông tin địa lý GIS còn được định nghĩa như là một hệ thống dùng để xử lý số liệu dưới dạng số dùng cho việc phân tích và quản lý các số liệu thuộc về địa lý, được kết hợp với các hệ thống phụ để nhập và truy xuất các dử liệu, nó có khả năng nhập, lưu trử, mô tả và khôi phục hay biểu thị những số liệu không gian
    Các kỹ thuật nhằm đánh giá và cải thiện năng suất cây trồng hiện nay đang được ứng dụng một cách rộng rãi. Các giống mới, việc quản lý tối hảo độ phì tự nhiên đất, kỹ thuật thâm canh, sử dụng đất,.. nhằm nâng cao năng suất cây trổng và tận dụng khã năng của đất đai. Tuy nhiên, các biện pháp được ứng dụng có sự chậm trễ trong việc đánh giá khã năng thích nghi thực sự của đất đai cũng như phần lớn các kỹ thuật sử dụng đất đều xuất phát từ nông dân mà các nhà làm khoa học chưa kịp nhận thức được khả năng ứng dụng của nó. Do đó, ngày nay với việc ứng dụng của máy vi tính, ảnh viễn thám với một số chương trình máy tính chuyên biệt, các nhà khoa học có thể dự đoán và đánh giá trước khã năng ứng dụng của một số kỹ thuật nông nghiệp củng như khả năng thích nghi của các loại cây trồng cùng với các yếu tố hạn chế trong sản xuất, hoặc có thể dự đoán khả năng phát triển và lây lan của một số sâu bệnh hại cây trổng,..dựa vào các yếu tố đất đai, khí hậu, môi trường và các điều kiện kinh tế xã hội. Về mặt môi trường việc sử dụng kỹ thuật GIS và ảnh viển thám đã và đang làm cho việc nghiên cứu thảm thực vật, các chũng loài rừng, tốc độ khai phá rừng, các ảnh hưởng của việc khai phá rừng đến môi trường, cũng như các yếu tố kinh tế xã hội có liên quan đến lâm nghiệp trở nên dể dàng và nhanh chóng hơn. Tình trạng các vùng đất lâm nghiệp có thể được xác định bằng việc sử dụng ảnh viển thám, với những thông tin thu được đó có thể được dùng để tính toán bao nhiêu diện tích rừng bị tàn phá và bao nhiêu diện tích còn lại và ờ một tỉ lệ nhanh hay chậm nó sẽ biến mất. Số liệu về rừng có thể được số hóa và phân tích bằng việc sử dụng kỹ thuật GIS, kỹ thuật này hiện nay đang trở nên có hiệu quả và có khã năng ứng dụng rộng rãi cho các nước đã và đang phát triển, ngay cả các nước nghèo nhất, cùng với các lãnh vực ứng dụng của nó cũng đang gia tăng một các đáng kể.
    Với những tiến bộ trong khoa hoc thông tin cũng như sự phát triển của các hệ thống máy tính hiện đại, hiện nay GIS (Geographic Information System) đang được sử dụng rộng rãi ở các nước đã và đang phát triển trong các lảnh vực quản lý nguổn tài nguyên thiên nhiên, môi trường, sử dụng đất đai, rừng, quản lý đô thị,....Trong nông nghiệp hiện nay phần lớn GIS được ứng dụng để lập kế hoạch củng như đánh giá sử dụng đất đai. Đối với nước ta kỹ thuật GIS thực tế đã được biết đến khoãng 7-8 năm trở lại đây nhưng chủ yếu trong lảnh vực quốc phòng, quản lý đô thị,..nhưng đến nay những ứng dụng của kỹ thuật GIS hầu như đang ở giai đoạn bắt đầu, đặc biệt là ở vùng ĐBSCL, do yêu cầu về kỹ thuật củng như về kinh phí đầu tư còn khá đất, củng như kinh phí để thực hiện một chương trình ứng dụng GIS thực sự chưa được chú trọng đến.
    Trường Đại học Cần thơ thực tế củng đã đưa GIS vào trong nghiên cứu đất đai khoảng vài năm trở lại đây, tuy nhiên các kết quả bước đầu củng chỉ ở mức nghiên cứu. Đến nay với những trang thiết bị và nguổn số liệu được thu thập bước đầu GIS đã được ứng dụng vào lảnh vực đánh giá đất đai, phân vùng sản xuất ở vùng ĐBSCL
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 01:38 ngày 27/09/2004
  4. gps

    gps Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/11/2002
    Bài viết:
    2.035
    Đã được thích:
    0
    Thân thế và sự nghiệp của bác lan0303 thật đáng nể, mong bác vẫn tiếp tục với cái chủ đề này. Em dù cũng biết tiếng Anh nhưng vẫn mong bác post bài tiếng Việt. Do thành viên có chuyên môn khác biệt nhau có người là luật sư, có người là bác sĩ hay thương gia, mong bác viết bài thật dễ hiểu, thỉnh thoảng bác lại viết một bài hàn lâm cho anh em thưởng thức.
    Chúc bác vui và có niềm vui trong công việc
  5. claymore

    claymore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/04/2004
    Bài viết:
    973
    Đã được thích:
    1
    Chào anh lan0303
    phải công nhận là các tài liệu anh gởi rất hay nhung thật sự
    là đôi lúc nó lại không thực tế (có gì mong anh bỏ quá cho )
    quả thật vào topic này em chỉ mong đọc được nhiều kinh nghiệm thực tế về sử dụng GPS ở Việt Nam ( sai số ,bảo quản,sủa chữa ) còn về lý thuyết thì quả thật em không phải chuyên ngành về Địa lý
    và em hoàn toàn đồng tình với ý kiến của anh GPS
    niềm vui lớn nhất của em là sử dụng GPS trong thực tế ( chả là em hay co máu du khảo )
    nhân tiện gởi anh GPS và các bạn tham gia Topic này nếu ai có GPS và có dịp đi Tây Nguyên (tuyến Batơ----> Komtum) thì kiểm tra giúp 2 điểm toạ độ này có chính xác và có gì thay đổi không nhé
    Datum : WSG 84
    http://ttvnol.com/f_233/262189/trang-14.ttvn
    sẽ gởi thêm nhiều điểm nữa (có hình và không có hình )
    hẹn gặp anh GPS 1 dịp nào đấy nếu cùng anh đi tìm giao điểm toạ độ thì hay quá
    Được claymore sửa chữa / chuyển vào 23:12 ngày 26/09/2004
  6. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    URL: http://www.ctu.edu.vn/colleges/agri/Lecture/gis/Bai 1.htm
    Xin lỗi Anh Minh vì đường link trên không làm việc, đành phải post bài của Anh lên đây.
    Bài I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
    I KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÔNG NGHÊ THÔNG TIN:
    Ai cũng biết là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất có bản chất là quá trình cơ khí hóa, nội dung là sử dụng máy móc thay thế lao động chân tay. Kết quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này là sự ra đời của các nước công nghiệp, cơ cấu kinh tế được chuyển đổi từ thuần túy nông nghiệp sang công nghiệp với tỷ trọng cao hơn nhiều lần. Từ những năm 50 con người bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai có bản chất là hóa trình tin học hóa nội dung là sử dụng ?ocông nghệ thông tin? để thay thế một phần lao động trí óc, để trợ giúp phần điều kiển bằng trí tuệ của con người. Vậy chúng ta cần hiểu trước hết thế nào là công nghệ thông tin và xu hướng phát triển hiện nay.
    Công nghệ thông tin là tập hợp các ngành khoa học kỹ thuật nhầm giải quyết vấn đề thu nhận thông tin, quản lý thông tin, xử lý thông tin, truyền thông tin và cung cấp thông tin. Để giải quyết những vấn đề này, người ta đã tập trung vào các nội dung sau đây:
    1.1. Xác định hệ thống thông tin
    - Xác định các thể loại thông tin, yêu cầu về chất lượng.
    - Xác định các chuẫn thông tin
    - Xác định hệ thống phần cứng và phần mềm hệ thống
    - Xây dựng tổ chức cho toàn hệ thống
    1.2. Thu nhận thông tin
    - Kỹ thuật đo đạc để lấy số liệu
    - Tổ chức hệ thống thống kê số liệu thông qua bộ máy quản lý của ngành
    - Tổ chức hệ thống cập nhật dữú liệu
    1.3. Quản lý thông tin
    - Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
    - Hệ quản trị cơ sở dữ liệu
    1.4. Xử lý thông tin
    - Phân tích và tổng hợp hệ thống thông tin
    - Giải các bài toán ứng dụng chuyên ngành
    1.5. Truyền thông tin
    - Xây dựng hệ thống đường truyền thông tin
    - Giải pháp truyền thông tin trên mạng
    - Hệ quản trị mạng thông tin
    - Bảo vệ an toàn trên đường truyền thông tin
    - Bảo mật thông tin
    1.6. Cung cấp thông tin
    - Xây dựng giao diện với người sử dụng
    - Hiển thị thông theo nhu cầu
    - Tổ chức mạng dịch vụ thông tin
    II. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
    2.1. Nhu cầu đa dạng hóa thông tin
    Trước khoảng 15 năm người ta mới chỉ quan tâm tới xử lý số cho các thông tin chử và số vì khả năng các thiết bị tin học mới chỉ xử ly ïđược các loại thông tin này. Nhu cầu đã đòi hỏi con người phải xử lý thông tin đa dạng hơn như thông tin đồ họa, hình ảnh động, âm thanh. Đến nay, các thể loại thông tin mà con người có thể cảm nhận được đều đã xử lý ở dạng số; đáng kể là các thông tin đồ họa ở dạng raster và vector, các thông tin multimedia ở dạng âm thanh, hình ảnh động v..v.. Trong các dạng thông tin trên người ta rất cần quan tâm tới các thông tin về không gian mà trên đó con người đang sống : các thông tin địa lý. Các thông tin này có liên quan trực tiếp tới hoạt động của con người và giúp chúng ta những quyết định chính xác về hành động của mình tác động vào môi trường.
    2.2. Nhu cầu chính xác hóa thông tin :
    Thông tin cần được thu nhập chính xác là một nhu cầu đương nhiên của con người. Đối với các thông tin chử - số cần phải đảm bảo thu nhận chính xác. Điều quan trọng cần quan tâm hơn là tính chính xác đối với các thông tin địa lý. Đó là tính chính xác của các vị trí địa lý trong không gian và các thông tin khác gắn lên vị trí địa lý đó.
    2.3. Xu hướng phát triển phần cứng và phần mềm hệ thống:
    Thiết kế phần cứng và phần mềm hệ thống cho các máy tính là một quía trình phát triển rất sinh động. Trong những năm 50 và 60 những người thiết kế máy tính đã đi theo tư tưởng tập trung, một máy tính sẽ thiết kế để đủ thực hiện mọi nhiệm vụ của một cơ sở xử lý thông tin. Vì vậy ngưới ta đã thiết kế và sản xuất các loại máy tính cở lớn. Tất nhiên công nghệ điện tử trong giai đoạn này chưa đạt được trình độ cao nên dung tích các loại máy tính lại càng lớn. Phần mềm hệ thống cơ bản là OS và UNIX.
    Từ những năm 70 khi các bộ vi xử lý ra đời những người thiết kế máy tính đã đưa ra các loại máy tính cá nhân gọi là PC với phần mếm hệ thống DOS. Các máy tính PC lúc này góp phần quyết định trong việc xã hội hoá công nghệ thông tin. Sau đó trong thập kỷ này hảng Microsoft đã có công lớn trong việc hình thành phẩm nền hệ thống WINDOWS với các phiên bản 3.1xWorgroup, NT .95. Đặc biệt WINDOWS NT đã có phiên bản chạy trên máy tính cở trung bình. Cho tới nay hai loại máy tính vẫn đang song song tồn tại; máy tính cở lớn (mainframe) và trung bình (workstation ) với phần mềm hệ thống UNIX là máy tính PC với phần mềm hộ thống WINDOWS. Cuộc chạy đua giữa hai dòng máy tính này sẽ dẫn tới một sự hòa nhập nào đó trong tương lai khi các bộ vi xử lý đạt được tốc độ xử lý thông tin ngang cở với các bộ xử lý của các máy tính trung bình.
    Khoảng từ những năm 80, người ta đã đưa ra ý tưởng hình thành hệ thống mạng máy tính. Đây là một ý tưởng có tính cách mạng trong công nghệ thông tin và đã làm thay đổi hướng phát triển. Đầu tiên người ta giải quyết mạng cục bộ (LAN) nhằöm nối các máy nhỏ lại với nhau để giải quyết các bài toán lớn hơn. Hệ mạng này làm cho máy tính PC có thể tìm kiếm được một vị trí cao hơn trong ứng dụng thưcû tế . Sau đó người ta đã tổ chức hệ thống thông tin toàn cầu (Intermet) làm cho thông tin được xã hội hóa mạnh hơn và các máy tính PC càng phát huy khả năng lớn hơn. Từ việc triển khai hệ thống internet cho từng ngành hoặc cho từng khu vực và hệ thống extranet cho liên ngành hoặc liên khu vực. Khi các mạng thông tin được hình thành người ta lại đưa ra một mô hình máy tính mới là NC- máy tính mạng. Đây là loại máy tính rất đơn giản có nhiều phần cứng được sử dụng chung trên mạng.
    2.4. Sự phát triển của kỹ thuật xử lý thông tin :
    Tốc độ xử lý thông tin với các bộ xử lý (CPU) hiện nay đã tăng lên hàng nghìn lần so với 10 năm trước (ví dụ từ hệ thống 16 bít tới hệ 64 bít hiện nay). Tốc độ xử lý cao là điều kiện để các nhà thiết kế phần mềm thực hiện các ý tưởng về định hướng đối tượng (object- oriented), kỹ thuật liên kết OLE nhúng và nối (linking and embeding), kỹ thuật xử lý đa nhiệm vụ (multitasking) và kỹ thuật liên kết mạng (networking). Các kỹ thuật xử lý này có tác động mạnh tới việc tổ chức cơ sở dữ liệu, xử lý khối lượng dữ liệu lớn và các thông tin phức tạp như địa lý.
    2.5. Sự phát triển trong xây dựng các cơ sở dữ liệu :
    Trước đây máy tính được thiết kế theo quan điểm tập trung (centralized đata- base). Thiết kế này tỏ ra lúng túng khi phải quản lý một khối lượng thông tin lớn và đa dạng. Từ khi mạng máy tính ra đời njgười ta đã đưa ra quan niệm về hệ thống cơ sở dữ liệu phân tán (dicentralized data base) . Hệ CSDL phân tán vừa cho phép giải quyết tốt bài toán với khối lượng dữ liệu lớn, vừa tạo được khả năng tương thích giữa hệ thống thông tin với hệ thống quản lý vừa tạo điều kiện tốt cho quá trình xã hội hoá thông tin.
    2.6. Sự phát triển mạng thông và kỹ thuật truyền tin:
    Qúa trình phát triển mạng thông tin từ mạng cục bộ (LAN) tới các mạng diện rộng (WAN) bao gồm intranet, extranet, hay internet đã giới thiệu ở trên. Các xa lộ thông tin với đường truyền tốc độ cao được hình thành để nối các máy lại với nhau. Thiết kế cụ thể các mạng là một kỹ thuật đơn thuần, ít điều cần nói đến. Vấn đề quan trọng ở đây là cần giải quyết tốc độ truyền tin, tính an toàn khi truyền tin và đảm bảo bí mật khi truyền tin. Các vấn đề này đang được giải quyết từng bước.
    2.7. Sự phát triển trong kỹ thuật thu nhận và cung cấp thông tin :
    Cho đến nay người ta đã đạt được thành tựu khá lớn trong tốc độ xử lý thông tin nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn trong kỹ thuật thu thập thông tin. Mặc dù vậy, việc thu thập thông tin điạ lý đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đó là kỹ thuật đo đạt số với các máy toàn đạc điện tử tự động (electronic totalstation), máy định vị thu từ vệ tinh GPS (RTK GPS), máy chụp ảnh số (digital camera), máy đo sáu số (Digital echosounder).. Điều cần quan tâm phát triển ở đây là kỹ thuật thu nhận các thông tin chữ- số. Vì cho đến nay vẫn chưa có gì nhanh hơn bàn phím máy tính. Để tăng nhanh tốc độ cần có sự phối hợp tốt nhất giữa mạng lưới thu nhận thông tin với hệ thống quản lý các ngành.
    Cung cấp thông tin đòi hỏi nâng cao kỹ thuật hiển thị thông tin. Hiển thị trên màn hình, trên các thiết bị nhớ đã được giải quyết tốt nhưng việc hiển thị trên các máy vẽ và máy in vẫn chưa đạt được tốc độ và chất lượng cần thiết.
  7. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Gửi Claymore!
    Rất hiểu ý! và câu hỏi, nhưng vì máy tính của mình không thể cùng một lúc chạy được nhiều chương trình nên tạm thời chưa có câu trả lời đúng, nhưng nhìn vị trí nêu mình nhớ ngay những trường hợp đặc biệt của lưới UTM, nếu biết nguyên lý thì mình có thể hình dung tại tọa độ đó số liệu GPS sẽ như thế nào, em thử đo gần những chân núi lớn xem sao ... (ảnh hưởng độ dị thường trọng lực ...) và nếu chỉ là du khảo không biết cũng không sao; năm 2003 có một cô thạc sỹ GIS đã khóc vì vị trí đó; nhưng để mình xem lại bản đồ đúng là nó hay không. Thân!
  8. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    URL: http://www.ctu.edu.vn/colleges/agri/Lecture/gis/Bai 2.htm
    Xin lỗi Anh Minh vì đường link trên không làm việc, đành phải post bài của Anh lên đây.
    BÀI 2. CƠ SỞ ĐỊA LÝ HỌC
    1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ:
    1.1. Định nghĩa
    Bản đồ địa lý là sự biểu thị thu nhỏ qui ước của bề mặt trái đất lên mặt phẳng, xây dựng trên cơ sở toán học với sự trợ giúp và sử dụng các ký hiệu qui ước để phản ánh sự phân bố, trạng thái và mối quan hệ tươgn quan của các hiện tượng thiên nhiên và xã hội được lựa chọn và khái quát hoá để phù hợp với mục đích sử dụng của bản đồ và đặc trưng cho khu vực nghiên cứu.
    a. Bản đồ như mô hình toán học
    Chúng ta biết trái đất có dạng Geoid, nhưng trong thực tế được coi là hình Elipxoid có kích thước và hình dạng gần đúng như hình Geoid.
    Khi biểu thị lên mặt phẳng một phần nhỏ bề mặt trái đất (trong phạm vi 20x20 km) thì độ cong trái đất có thể bỏ qua. Trong trường hợp này các đường thẳng đã đo trên thực địa được thu nhỏ theo tỷ lệ qui định và biểu thị trên giấy không cần hiệu chỉnh độ cong của trái đất. Những bản vẽ như thế gọi là bình đồ.
    Trên bình đồ, tỷ lệ ở mọi nơi và mọi hướng đều như nhau. Trên bản đồ biểu thị toàn bộ trái đất hoặc một diện tích lớn thì độ cong của trái đất là không thể bỏ qua.
    Việc chuyển từ mặt Elipxoid lên mặt phẳng được thực hiện nhờ phép chiếu bản đồ. Các phép chiếu biểu hiện quan hệ giữa tọa độ các điểm trên mặt đất và tọa độ các điểm đó trên mặt phẳng bằng các phương pháp toán học. trong trường hợp này, các phần tử nội dung bản đồ giữ đúng vị trí địa lý, nhưng sẽ có sai số về hình dạng hoặc diện tích. Bề mặt trái đất được biểu thị trên bản đồ với mức độ thu nhỏ khác nhau tại những phần khác nhau của nó, có nghĩa là tỷ lệ ở những điểm khác nhau trên bản đồ cũng khác nhau. Có thể biểu thị mặt cầu trái đất trên mặt phẳng theo nhiều cách khác nhau. Nếu dùng các phép chiếu khác nhau và tuân theo các điều kiện toán học nhất định đặt ra cho sự biểu thị đó.
    Ví dụ : người ta cần những phép chiếu đồng góc hoặc đồng diện tích. Muốn vậy, theo những điều kiện nhất định tính tọa độ các giao điểm của kinh tuyến và vĩ tuyến. Dựa theo những điểm này dựng hệ lưới kinh vĩ tuyến gọi là lưới bản đồ. Lưới bản đồ dùng làm cơ sở để chuyển vẽ toàn bộ nội dung còn lại của bản đồ.
    b. Mô hình thực tiễn
    Trên bản đồ người ta thể hiện các đối tượng và hiện tượng có trên mặt đất trong thiên nhiên, xã hội và các lĩnh vực hoạt động của con người.
    Các yếu tố nội dung của bản đồ là:
    - Thủy hệ
    - Địa hình bề mặt
    - Dân cư
    - Đường giao thông
    - Ranh giới hành chánh - chính trị
    - Lớp phủ thổ nhưỡng - thực vật
    - Các đối tượng kinh tế xã hội
    Các yếu tố kể trên được thể hiện trên bản đồ địa lý chung và trên một số các bản đồ chuyên đề.
    Bản đồ chuyên đề có các yếu tố nội dung riêng đặc trưng cho từng loại như thổ nhưỡng địa chất. Trên các bản đồ chuyên đề các yếu tố địa lý chung được thể hiện với các mức độ khác nhau phụ thuộc vào giá trị của chúng trong việc nêu bật các yếu tố chính của bản đồ chuyên đề. Chúng ta sẽ trở lại với nội dung của bản đồ chuyên đề ở phần sau.
    c. Bản đồ như mô hình qui ước
    Các yếu tố nội dung của bản đồ được thể hiện bằng những ký hiệu qui ước. Các ký hiệu thể hiện vị trí, hình dáng kích thước của đối tượng trong thực tế, ngoài ra còn thể hiện một số đặc trưng về số lượng và chất lượng.
    Phân ra 3 loại ký hiệu
    ? Ký hiệu theo tỷ lệ - vùng
    ? Ký hiệu theo tỷ lệ - đường
    ? Ký hiệu phi tỷ lệ - điểm
    Việc thể hiện kích thước và các đặc trưng khác đối tượng trên bản đồ đạt được bằng cách sử dụng màu sắc, cấu trúc của ký hiệu và các ghi chú kèm theo.
    Việc sử dụng hệ thống ký hiệu qui ước cho phép chúng ta:
    - Biểu thị toàn bộ bề mặt trái đất hoặc những khu vực lớn trong một bản đồ giúp chúng ta nắm bắt những điểm quan trọng không thê thể hiện với tỷ lệ nhỏ. Điều đó là không thể nếu sử dụng những mô hình không gian kiểu ảnh hàng không ..
    - Thể hiện bề mặt lồi lõm của trái đất lên mặt phẳng
    - Phản ánh các tính chất bên trong của sự vật, hiện tượng
    - Thể hiện sự phân bố, các quan hệ của sự vật, hiện tượng một cách trực quan
    - Loại bỏ những mặt ít giá trị, các chi tiết vụn vặt không đặc trưng hoặc đặc trưng cho các đối tượng riêng lẻ, mặt khác nêu bật các tính chất căn bản, các tính chất chung. Ký hiệu giữ những nét đặc trưng trên trên các bản đồ khác nhau về tỷ lệ và thể loại. Như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các bản đồ khác nhau.
    d. .Lựa chọn và tổng quát hoá (TQH)
    Các bản đồ với tỷ lệ , đề tài với mục đích sử dụng khác nhau có những yêu cầu khác nhau về các yếu tố nội dung. Tổng quát hoá bản đồ là phương pháp thể hiện và phát hiện những nét chủ yếu và điển hình đặc trưng cho các hiện tượng được phản ánh. Tổng quát hoá là bắt buộc khi ta xây dựng những mô hình thu nhỏ. Tổng quát hoá bản đồ được thực hiện bằng.
    - Chọn lọc các đối tượng và hiện tượng được biểu thị
    - Khái quát các đặc trưng về số lượng và chất lượgn
    - Thay thế các đối tượng riêng lẻ bằng những đối tượng bao quát
    - Khái quát hình vẽ biểu thị các đối tượng và hiện tượng
    Tổng quát hoá dẫn đến mâu thuẫn (xung khắc) giữa những yêu cầu về độ chính xác hình học và phù hợp địa lý của bản đồ song tổng quát hoá là bắt buộc với khi xây dựng bất kỳ model thu nhỏ nào. Tổng quát hoá ở một mức độ nào đó . được dùng như phương tiện trừu tượng hoá và nhận thức .Tổng quát hoá đem lại cho bản đồ những giá trị mới. Như vậy, cơ sở toán học, sự tổng quát hoá các yếu tố nội dung và sự thể hiện các đối tượng và hiện tượng bằng các ký hiệu qui ước là 3 đặc tính cơ bản phân biệt giữa bản đồ và các hình thức biểu thị bề mặt trái đầt khác.
    1.2. Các tính chất của bản đồ
    - Tính trực quan: bản đồ cho ta khả năng bao quát và tiếp thu nhanh chóng những yếu tố chủ yếu và quan trọng nhất của nội dung bản đồ. Nó phản ánh các tri thức về các đối tượng (hiện tượng)được biểu thị bằng bản đồ, người sử dụng có thể tìm ra những qui luật của sự phân bố các đối tượng và hiện tượng
    - Tính đo được : có liên quan chặt chẽ với cơ sở toán học của bản đồ. Căn cứ vào tỷ lệ, phép chiêu, vào thang bậc của các dấu hiệu qui ước, người sử dụng có khả năng xác định các trị số khác nhau như: tọa độ, biên độ , khoảng cách , diện tích, thể tích , góc phương hướng. Chính nhờ tính chất này mà bản đồ được dùng làm cơ sở để xây dựng các mô hình toán học của các hiện tượng địa lý, giải quyết các bài toán khoa học và thực tiển.
    - Tính thông tin: khả năng lưu trữ và truyền đạt cho người sử dụng.
    1.3 . Các yếu tố nội dung của bản đồ địa lý
    a. Thủy hệ
    Gồm các đối tượng thủy văn : biển, sông , kênh ,hồ , các hồ chứa nước nhân tạo, mạch nước, giếng, mương máng .., các công trình thủy lợi khác và giao thông thủy: bến cảng, cầu cống, thủy điện, đập. Theo giá trị giao thông chia sông thành tàu bè đi lại được hay không, theo tính chất dòng chảy: có dòng chảy hoặc khô cạn một mùa .. nguồn nước : tự nhiên nhân tạo các kiểu đường bờ. Khi thể hiện thủy hệ người ta dùng các ký hiệu khác nhau ho phép phản ánh đầy đũ nhất các đặc tính. Bằng những ký hiệu bổ sung, giải thích con số ... thể hiện các đặc tính như: chiều rộng, sâu tốc độ hướng dòng chảy, chất đáy, điểm đường bờ chất lượgn nước ... Đối với những đối tượng quan trọng ta ghi chú tên gọi địa lý của chúng. Trên bản đồ sông được thể hiện bằng một hoặc hai nét phụ thuộc vào độ rộng trên thực địa mức độ quan trọng và tỷ lệ bản đồ.
    b. .Điểm dân cư
    Là một trong các yếu tố quan trọng nhất của bản đồ địa hình được đặc trưng bởi kiểu cư trú : (TT,TN), dân số ý nghĩa hành chính chính trị. Đặc điểm của dân cư được biểu thị bằng độ lớn màu sắc, kiểu dáng của ký hiệu và ghi chú tên gọi
    Ví dụ Trên bản đồ địa hình tỷ lệ 1/5000 biểu thị tất cả các công trình xây dựng theo tỷ lệ, đặc trưng của vật liệu xây dựng ...
    Trên bản đồ 25.000 đến 100.000 biểu thị các điểm dân cư tập trung bằng các ô phố và khái quát đặc trưng chất lượng. Các công trình xây dựng độc lập biểu thị bằng ký hiệu phi tỷ lệ, cố gắng giử sự phân bố.
    c. Đường giao thông
    Gồm đường sắt, đường bộ , đường thủy, đường hàng không. Đặc tính của các đường giao thông được thể hiện khá đầy đủ, tỷ mỉ về khái niệm giao thông và trạng thái cấp quản lý đường. Mạng lưới đường giao thông thể hiện chi tiết hay khái lược phụ thuộc vào tỷ lệ bản đồ, cần thiết phải phản ánh mật độ , hướng và vị trí của đường giao thông. Đường sắt phân theo chiều rộng, số đường rây, hiện trạng và số dạng sức kéo. Trên đường sắt biểu thị nhà ga, các vật kiến trúc, thiết bị đường sắt (cầu, cống , tháp nước, trạm canh... ) ,đường tàu điện. Đường bộ phân ra theo tình trạng kỹ thuật, chiều rộng, cấp quản lý, giá trị giao thông
    Để nêu bật các đặt trưng trên bản đồ sử dụng các ký hiệu với màu sắc, kiểu dán khác nhau và các ghi chú giải thích. Khi lựa chọn biểu thị đường giao thông phải xét đến ý nghĩa của đường sá, ưu tiên biểu thị những con đường đảm bảo mối quan hệ giữa các điểm dân cư và các đầu nút giao thông, các trung tâm văn hoá ?" kinh tế ...
    d. Các đối tượng kinh tế xã hội
    Đường dây thông tin , dẫn điện, dầu, khí đốt, các đối tượng kinh tế, văn hoá, lịch sử, sân bay, cảng
    e. Dáng đất
    Trên bản đồ địa lý được thể hiện bằng các đường bình độ. Một số dạng riêng biệt thể hiện bằng hký hiệu (vực, khe xói, đá tảng, đá vụn).
    - Độ cao so với mặt biển của một số điểm đặc trưng
    - Các đối tượng sơn băng (dãy núi, đồng bằng, thung lũíng yên ngựa, địa hình caster, đường phân thủy, tụ thủy ... .).
    Khoảng cao đều giữa các đường bình độ trên bản đồ địa hình được qui định trong các qui phạm theo tỷ lệ bản đồ và đặc điểm khu vực (đồng bằng hoặc núi) Ví dụ : bản đồ 1/50.000 khoảng cao đều bằng 10-20 m ; 1/100.000 khoảng cao đều 20-40 m. Để thể hiện đầy đủ các tính chất đặc trưng của địa hình, đặc biệt là các vùng đồng bằng, người ta vẽ thêm các đường bình độ nửa khoảng cao đều và đường bình độ phụ. Các đường bình độ cái được đánh số, các đường bình độ ở yên núi bổ sung vạch chỉ dốc. Dáng đất (địa hình)có khi được thể hiện bằng phương pháp tô bóng địa hình, hoặc phân tầng màu theo độ cao hoặc kết hợp giữa các phương pháp.
    f. Ranh giới hành chiïnh - chính trị
    Bao gồm ranh giới quốc gia và ranh giới cấp hành chính tuỳ thuộc vào vào tỷ lệ và mục đích sử dụng của bản đồ.
    g. Cơ sở thiên văn- trắc địa và điểm định hướng (bản đồ địa hình)
    Địa vật định hướng là những đối tượng cho phép ta xác định vị trí nhanh chóng và chính xác trên bản đồ thường được biểu tượng bằng các đối tượng phi tỷ lệ trên thực tế là những địa vật dễ nhận biết (ngã ba, ngã tư đường sá, giếng ở xa khu dân cư... ) hoặc nhô cao so với mặt đất .
    Các điểm thuộc lưới khống chế cơ sở được biểu thị với mức độ chi tiết và độ chính xác phụ thuộc vào tỷ lệ cũng như mức độ sử dụng của bản đồ
    h. Ghi chú trên bản đồ
    Ghi chú trên bản đồ là các chữîí viết nằm giải thích theo ký hiệu, các địa danh, tên các đối tượng. Chúng kết hợp với ký hiệu trên bản đồ và làm phong phú nội dung của bản đồ. Ghi chú bản đồ giúp chúng ta khái quát nội dung của bản đồ cũng như phân biệt các đối tượng.
    z Phân loại ghi chú trên bản đồ :
    Có nhiều loại ghi chú khác nhau
    - Tên riêng của các đối tượng: tên thành phố, tên tỉnh ...
    - Ghi chú chỉ dẫn
    - Ghi chú giải thích tính chất của các đối tượng, thuật ngữ địa lý, các đặc trưng về số lượng, chất lượng ...
    - Ghi chú có khả năng chuyển tải thông tin bằng font chữ, kích thước, màu sắc, định hướng ...Ghi chú thường được bố trí gần với các đối tượng liên quan
    i. Lớp phủ thực vật - thổ nhưỡng
    Trên bản đồ biểu thị các loại rừng, cây bụi, vườn cây, đồn điền, ruộng muối, đất mặn, đầm lầy. Ranh giới các khu vực được biểu thị chính xác về phương diện đồ họa, các loại thực vật và thổ nhưỡng khác nhau đượ c thể hiện bằng ký hiệu qui ước đặc trưng.
    Ví dụ: Đầm lầy phân ra thành đầm lầy qua được, đầm lầy không qua được và khó qua. Rừng, rừng già, rừng thưa, rừng non, rừng mới trồng ... Các loại thực vật tự nhiên và người trồng ...
    Trên bản đồ chuyên đề lớp phủ thực vật và thổ nhưỡng thường không được thể hiện hoặc thể hiện sơ lược phụ thuộc vào nội dung, tỷ lệ và mục đích sử dụng của bản đồ.
    1.4. Cơ sở toán học của bản đồ địa lý
    Bao gồm :
    - Tỷ lệ
    - Cơ sở trắc địa và thiên văn
    - Lưới kinh - vĩ tuyến và các lưới tọa độ khác
    - Bố cục bản đồ và khung bản đồ
    - Hệ thống chia mảnh
    - Số liệu
    a. Tỉ lệ bản đổ (map scale)
    Tỷ lệ bản đồ thường được hiểu là tỷ lệ độ dài của một đường trên bản đồ và độ dài thực của nó trên thực địa. Trên bình đồ biểu thị một khu vực nhỏ của bề mặt trái đất, ảnh hưởng của độ cong trái đất trên bản đồ là không đáng kể nên tỷ lệ trên toàn bản đồ là như nhau. Trên bản đồ những khu vực lớn hơn , độ cong của trái đất gây nên sự biến dạng trong biểu thị các các đối tượng nên tỷ lệ bản đồ là đại lượng thay đổi từ điểm này sang điểm khác hay thậm chí trên cùng một điểm cũng thay đổi theo các hướng khác nhau. Tỷ lệ chính của bản đồ (được ghi trên bản đồ) được bảo toàn ở một số điểm và một số hướng tuỳ thuộc vào phép chiếu. Ta hiểu tỷ lệ của bản đồ là mức độ thu nhỏ của bề mặt trái đất khi biểu diễn lên bản đồ.
    Tỉ lệ bản đổ nói lên mức độ chi tiết các thành phần có thể biểu hiện được trên bản đổ và kích thước các chi tiết có thể đo đạc được tương ứng với điều kiện ngoài thực tế.
    Tỉ lệ bản đổ có thể được biểu hiện như là một đơn vị đo đạc và chuyễn đỗi, thí dụ như ở tỉ lệ 1/24.000, 1 cm trên bản đổ tương ứng với 24.000 cm ngoài thực tế, hoặc 24 m
    Một bản đổ có tỉ lệ là 1/10.000 sẽ bao phủ một vùng rộng lớn hơn bản đổ ở tỉ lệ 1/24.000, tuy nhiên bản đổ có tỉ lệ lớn sẽ chứa các đặc điểm chi tiết hơn bản đổ có tỉ lệ nhỏ.
    b. Cơ sở trắc địa - thiên văn của bản đồ
    Được đặc trưng bởi hình Elipxoit và hệ thống tọa độ trắc địa khởi điểm đã sử dụng để thành lập bản đồ. Cơ sở trắc địa- thiên văn được thể hiện bằng các điểm khống chế, các điểm khống chế là những điểm đã được cố định trên thực địa và được xác định tọa độ. Những điểm khống chế này được sử dụng khi thành lập bản đồ tỷ lệ lớn để xác định đúng vị trí các yếu tố nội dung của bản đồ
  9. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    * Geoid là gì?
    Bề mặt tự nhiên của trái đất rất phức tạp về mặt hình học không thể biểu thị nó bởi một qui luật nhất định nào. Trong trắc địa bề mặt tự nhiên trái đất được thay thế bằng mặt Geoid. Mặt Geoid là mặt nước biển trung bình yên tĩnh trải rộng xuyên qua lục địa và luôn vuông góc với các hướng dây dọi. Tuy được định nghĩa đơn giản như vậy song do sự phân bố không đồng đều của các khối vật chất trong vỏ quả đất làm biến đổi hướng trọng lực, nên bề mặt Geoid có dạng phức tạp về mặt hình học.
    * Bề mặt Elipxoid quay của trái đất
    Trong thực tiễn trắc địa bản đồ, người ta lấy mặt Elipxoid quay có hình dạng kích thước gần giống Geoid làm bề mặt toán học thay cho Geoid. Elipxoid có khối lượng bằng khối lượng Geoid, tâm trùng với trọng tâm của trái đất, mặt phẳng xích đạo trùng với mặt phẳng xích đạo trái đất.
    Kích thước của Elipxoid quay được xác định bằng:
    a. Bán trục lớn
    b. Bán trục nhỏ
    a - b
    a Độ dẹt a = ---------------
    a
    c. Độ lệch tâm
    d. Độ lệch tân thứ 2
    Kích thước của Elipxoid trái đất được tính theo tài liệu đo đạc trắc địa, thiên văn và trọng lực.
    Ngoài việc xác định kích thước của Elipxoid thay cho Geoid, cần phải đặt đúng Elipxoid ở thể trái đất gọi là định hướng Elipxoid. Định hướng Elipxoid khác nhau dẫn đến sự khác nhau về tọa độ của một điểm khi tính tọa độ từ những góc khác nhau.
    Kích thước và định hướng elipxoid được xác định khác nhau trên thế giới gây nên sự phức tạp trong sử dụng tài liệu trắc địa - bản đồ.
    z Các nguồn tài liệu trắc địa - bản đồ ở Việt Nam:
    - Bản đồ do Pháp thành lập trước năm 1954 chủ yếu sử dụng Elipxoid Cbamie 1880
    - Bản đồ sau năm 1954 sử dụng Elipxoid Krassobsk, lưới chiếu Gauss, Kruger
    - Bản đồ do người Mỹ thành lập trước năm 1975, lưới chiếu UTM, Elipxoid, Everet, 1830
    Bản đồ UTM là nguồn tài liệu phong phú, đặc biệt đối với các vùng núi và cao nguyên hiểm trở. Thường được thành lập bằng phương pháp chụp ảnh máy bay. Việc sửa đổi, hiệu chỉnh để đưa vào sử dụng các nguồn tài liệu này đang được thực hiện.
    c. Hệ tọa độ
    Trước khi các số liệu về địa lý được sử dụng trong GIS, chúng phải được tham khảo với một hệ thống tọa độ thông thường. Các khó khăn với các số liệu tọa độ địa lý là một số hệ thống tọa độ địa lý tham khảo mà nó diển tả thế giới thật bằng nhiều cách và với độ chính xác khác nhau.
    Các tọa độ trên bề mặt trái đất là Vĩ độ (latitude), được đo theo đơn vị độ Bắc hoặc Nam của xích đạo. Kinh độ (longtitude), được đo theo đơn vị độ Tây hoặc Đông của kinh độ Greenweek ở Anh. Vị trí của kinh độ và vĩ độ thực tế chỉ có tính cách tương đối, Khoãng cách và diện tích phải được tính toán bằng việc dùng phương pháp tính toán địa lý không gian và bán kính của trái đất đến các điểm cần tính.
    Về mặt ứng dụng, vĩ độ và kinh độ thường được sử dụng trong việc mô tả các vùng đất chính
    f Hệ tọa độ địa lý
    Các giao điểm của bán trục nhỏ với mặt Elipxoid trái đất được goị là các cực Bắc và Nam. Các vòng tròn tạo ra do các mặt phẳng thẳng góc với trục nhỏ và cắt Elipxoid gọi là các vĩ tuyến. Vĩ tuyến lớn nhất nằm trên mặt phẳng đi qua tâm Elipxoid gọi là đường xích đạo. Bán kính đường xích đạo = a
    Các giao tuyến của các mặt phẳng Elipxoid với các mặt phẳng đi qua trục quay (trục nhỏ) là những Elipxoid bằng nhau và còn gọi là các kinh tuyến. Vi trí của các điểm trên mặt Elipxoid trái đất hoặc mặt cầu xác định bằng tọa độ địa lý là vĩ độ (j) và kinh độ (l)
    Qua bất kỳ một điểm nào đó trên bề mặt Elipxoid kể một đường thẳng đứng (pháp tuyến) hướng vào trong Elipxoid khi cắt mặt phẳng xích đạo, đường pháp tuyến tạo với nó một góc đó chính là vĩ độ địa lý, được tính từ xích đạo, nhận giá trị từ 0 đến 900 lên Bắc ký hiệu là v.B hoặc N; v.N hoặc S
    Góc giữa các mặt phẳng kinh tuyến đi qua một điểm cho trước và mặt phẳng của kinh tuyến gốc gọi là kinh đồ địa lý, ký hiệu l. Kinh đồ tính từ kinh tuyến gốc (kinh tuyến Greenwich) sang đông đến 1800 là dương (k.đ. E); kinh tuyến gốc sang tây đến 1800 (k.t.W)
    2. CÁC HỆ QUI CHIẾU BẢN ĐỒ (MAP PROJECTIONS)
    2.1. Lưới chiếu bản đồ (lưới kinh vĩ tuyến)
    Lưới kinh vĩ tuyến chính là sự thể hiện trực quan của phép chiếu bản đồ.
    a. Phép chiếu bản đồ là gì?
    Bề mặt hình cầu của trái đất chỉ có thể được biểu thị đồng dạng trên quả địa cầu, để nghiên cứu bề mặt trái đất một cách chi tiết chúng ta bắt buộc phải sử dụng bản đồ khi xây dựng bản đồ, vấn đề cần thiết là phải biểu thị bề mặt hình cầu của trái đất lên mặt phẳng.
    Khoảng cách giữa các điểm, diện tích, hình dạng các khu vực trên trái đất khi biểu thị lên mặt phẳng không tránh khỏi sự biến dạng, hay nói cách khác có sai số. Sự phân bố độ lớn của các sai số này rất là khác nhau, phụ thuộc vào độ lớn của lảnh thổ được biểu thị và vị trí của chúng trong hệ tọa độ được sử dụng chia nhỏ bề mặt nghiên cứu sẽ giảm phần nào các sai số trên, song mất sự liên tục cần thiết cho nghiên cứu khái quát, cũng thực hiện công tác đo đạc ở các vùng giáp ranh. Để biểu thị bề mặt Elipxoid lên mặt phẳng người ta sử dụng phép chiếu bản đồ. Phép chiếu bản đồ xác định sự tương ướng giữa bề mặt Elipxoid và mặt phẳng có nghĩa là mỗi điểm trên bề mặt Elipxoid quay có tọa độ j, l tương ứng với một điểm duy nhất trên mặt phẳng với tọa độ vuông góc X,Y.
    Lưới kinh vĩ độ (hoặc các đường tọa độ khác xây dựng trong những phép chiếu nhất định gọi là lưới chiếu bản đồ), lưới chiếu bản đồ đó là cơ sở toán học để phân bố chính xác các yếu tố nội dung bản đồ. Quan hệ phụ thuộc giữa tọa độ một điểm trên mặt đất và tọa độ vuông góc của điểm đó trên bản đồ được biểu thị bằng công thức
    x= f1(j, l)
    y = f2 (j, l)
    b. Các phép chiếu hình và lưới chiếu hình :
    Các phép chiếu bản đồ được phân loại như sau :
    Phân loại theo tính chất biểu diễn (theo đặc điểm sai số) và hình dạng lưới kinh vĩ tuyến
    - Phép chiếu giữ góc là phép chiếu trong đó góc được biểu diễn không có sai số
    - Phép chiếu giữ diện tích
    - Phép chiếu giữ độ dài theo một hướng nhất định
    - Phép chiếu tự do
    Phân loại theo mặt phẳng phụ trợ được sử dụng
    - Hình nón
    - Hình trụ
    - Hình trụ giả
    - Hình nón giả
    - Nhiều hình nón
    - Phương vị
    Lưới chiếu bản đổ là cơ sở toán học để phân bố chính xác các yếu tố nội dung bản đổ. Việc trải mặt cầu lên mặt phẳng bằng các phương pháp chiếu hình bản đổ cơ bản là
    Plannar Conical Cylindrical
    Phương vị) (Hình nón) (Hình ống)
    Hình : Các lưới chiếu hình ống, nón, phương vị (Plannar, Conical, cylindrical)
    Trong các phép chiếu này mặt hình ống, mặt hình nón và mặt phẳng là những bề mặt hổ trợ. Nếu nguổn sáng ở tâm trái đất chiếu hắt mạng lưới kinh vĩ tuyến lên các bề mặt phụ này, thì ta nhận ra các dấu hiệu riêng của mổi loại chiếu hình như sau :
    f Phép chiếu hình ống (Cylindrical family):
    Kinh tuyến là những đường song song thẳng đứng, vĩ tuyến là những đường song song nằm ngang và vuông góc với kinh tuyến. Dọc theo đường xích đạo tiếp xúc với mặt phẩng hình ống không có biến dạng trên bản đổ, càng xa đường tiếp xúc về phía hai cực, sai số càng lớn.

    f Phép chiếu hình nón (Conic family)
    Kinh tuyến là chùm đường thẳng giao nhau tại đỉnh hình quạt, vĩ tuyến là những cung tròn đồng tâm tại đỉnh hình quạt. Dọc theo vĩ tuyến tiếp xúc với mặt nón không có biến dạng trên bản đồ. Càng ra xa vĩ tuyến tiếp xúc theo chiều kinh tuyến, sai số càng lớn.

    f Phép chiếu hình phương vị (Planar family)
    Nếu mặt phẳng tiếp xúc với mặt cầu tại cực, thì kinh tuyến là chùm đường thẳng giao nhau tại điểm cực, vĩ tuyến là những đường tròn lấy điểm cực làm tâm. Tại điểm cực không có sai số chiếu hình, càng xa cực sai số càng lớn.

    z Trên đây là 3 loại lưới chiếu hình cơ bản, phân theo phương pháp chiếu hình và nêu đặc điểm của chúng ở dạng tiêu chuẩn. Muốn xây dựng bản đổ một khu vực hoặc thế giới, ni ta căn cứ vào vị trí địa lý, đặc điểm hình học và kích thước to nhỏ của khu vực thiết kế bản đổ, căn cứ vào bố cục bản đổ, khuôn khổ xuất bản và tiện lợi cho sản xuất, mà chọn một trong những phương pháp chiếu đổ giữ góc, giữ diện tích, giữ chiều dài.. Các bản đổ xuất bản thông thường chúng ta dùng lưới chiếu giữ hình dạng, đối với các mục đích nghiên cứu thường dùng lưới chiếu giữ diện tích.
    Việc phân loại chỉ là tương đối, nhất là hiện nay người ta áp dụng rộng rãi các phương pháp giải tích toán học để tính toán các phép chiếu mới có dạng lưới chuẩn không thể liệt váo những loại phép chiếu kể trên. Tuỳ thuộc vào độ lớn, hình dạng, vị trí của lảnh thổ, tỷ lệ bản đồ và mục đích sử dụng, người ta cho phép những phép chiếu khác nhau. Khi sử dụng tài liệu bản đồ phải biết rõ về phép chiếu được dùng để thành lập bản đồ. Khi dùng bản đồ để thiết kế , đo đạc, ta phải biết rõ về tính chất các sai số đặc trưng của phép chiếu và đặc điểm phân bố để có thể tính toán hiệu chĩnh kết quả đo đạc, xác định vị trí các đối tượng trong thực tế. Muốn vậy người ta nghiên cứu dạng lưới bản đồ, sự định hướng, sự biểu thị cực xích đạo và lưới kinh vĩ tuyến, xác định bằng phương pháp gần đúng sai số biểu thị góc, diện tích và khoảng cách.
    Khi dùng bản đồ để làm tài liệu thành lập bản đồ khác cần phải biết đích xác về phép chiếu bản đồ để có thể thực hiện các phép chuyển đổi các đối tượng sang hệ tọa độ của bản đồ thành lập. Ngoài ra có các phép chiếu như sau :
    f Phép chiếu Gauss - Kriugera và hệ tọa độ Gauss- Kriugera.
    Phép chiếu Gauss- Kriugera là phép chiếu hình trụ ngang giữa góc dùng để tính tọa độ của mạng lưới trắc địa cũng như tính toán lưới tọa độ bản đồ dùng cho bản đồ địa hình tỷ lệ lớn. Bề mặt trái đất được biểu diễn theo từng múi kinh tuyến, theo vĩ độ, múi lấy từ cực này tới cực kia, còn theo kinh độ thường lấy kéo dài từ 30 đến 60. Kinh vĩ tuyến được biểu thị bằng những đường cong, trừ xích đạo và kinh tuyến trục. Mỗi múi có gốc tọa độ riêng, cho phép ta thu nhỏ sai số trên lưới chiếu.
    Ở Việt Nam, lưới chiếu Gauss- Kriugera được sử dụng rộng rãi áp dụng phép chiếu với múi 6 0 cho các bản đồ từ 1: 10.000 đến 1: 500.000.
    Aïp dụng với múi chiếu 3 0 cho các bản đồ 1: 5.000 và lớn hơn. Lãnh thổ Việt Nam nằm trong các múi 60 thứ 18, 19 tính từ kinh tuyến Greenwich, gốc tọa độ của mỗi múi là điểm giao nhau của xích đạo và kinh tuyến trục , kinh tuyến trục là trục X, xích đạo là trục Y. Để tránh tung độ (Y), âm (-), người ta cộng thêm vào tung độ giá trị 500.000m.
    Nhiều khi người ta ghi số chỉ tên múi vào đầu giá trị y:
    Ví dụ : y = 18 586 000
    Y = 19 237 000
    Hệ tọa độ Gauss- Kriugera là hệ tọa độ vuông góc phẳng, sử dụng phép chiếu Gauss- Kriugera để tính toán mạng lưới cơ sở trắc địa theo tọa độ địa lý tính trong Elipxoid Krassobski
    f Phép chiếu UTM và hệ tọa độ UTM ở Việt Nam
    Lưới chiếu UTM là cùng một dạng công thức lưới chiếu giữ góc Gauxơ Krugơ. Ưu điểm của lưới chiếu là chỉ cần một bài toán cho một múi lưới chiếu là có thể giải quyết việc biên chế bản đổ địa hình cho phạm vi toàn cầu. Nhược điểm là không thể chia múi nhỏ theo hệ phân đối múi lưới chiếu Gauxơ.
    Nói tóm lại khi dùng phương pháp chiếu đồ chuyển các đối tượng địa lý từ bề mặt cầu của quả đất lên mặt phẳng sẽ có những điểm, đường, diện tích, góc không có sai số hoặc rất nhỏ, không đáng kể, nhưng cũng có chổ bị co lại hoặc giãn ra, hình dáng chúng bị méo mó đi mà người ta thường gọi là biến dạng bản đổ. Đó là sự phá vỡ các tính chất hình học - chiều dài đường thẳng, góc, hình dạng và diện tích các đối tượng trên bề mặt đất - trong biến dạng của chúng trên mặt phẳng.
    Phép chiếu UTM là phép chiếu hình trụ ngang đồng góc thỏa mãn điều kiện : kinh tuyến giữa là đường thẳng và trục đối xứng
    - Tỷ lệ độ dài m0 trên kinh tuyến trục là m0 = const= 09996.
    Trong phép chiếu UTM, có 2 đường chuẩn, giá trị m0 = 1. Hai đường chuẩn này đối xứng với nhau qua kinh tuyến trục và cắt xích đạo tại những điểm cách kinh tuyến giữa một khoảng l » 10 30. Do đó các trị số biến dạng trong phép chiếu UTM nhỏ hơn trong phép chiếu Gauss.
    Nếu dùng Elipxoid có kích thước và định tâm giống nhau thì sự chuyển đổi giữa hai phép chiếu Gauss- Kriugera và UTM sẽ rất đơn giản. Lưới chiếu UTM ở Việt Nam múi 60 được áp dụng thành lập bản đồ địa hình thời kỳ trước năm 1975 bằng phương pháp chụp ảnh hàng không. Do sử dụng Elipxoid Everest 1830 việc chuyển đổi giữa hai phép chiếu trở nên phức tạp và làm hạn chế khái niệm sử dụng tài liệu bản đồ với tọa độ UTM.
    2.2. Khung bản đồ
    Khung bản đồ có rất nhiều dạng. Trên phần lớn các bản đồ khung là một đường giới hạn lãnh thổ được thể hiện gọi là khung trong song song với khung trong ngưới ta vẽ khung ngoài có tính chất trang trí giữa khung trong và khung ngoài là trị số các đường kinh vĩ tuyến, địa danh các đường phụ cận, nút giao thông gần nhất.
    2.3. Bố cục bản đồ
    Là sự bố trí khu vực được thành lập bản đồ trên bản đồ, xác định khung của nó, sắp xếp những yếu tố trình bày ngoài khung và những tư liệu bổ sung. Các bản đồ địa hình bao giờ cũng định hướng kinh tuyến giữa theo B-N. Trong khung biểu thị khu vực được thành lập liên tục và không lập lại trên những mảnh phụ cận. Bố trí tên bản đồ, số hiệu mảnh, tỷ lệ, các tài liệu tra cứu và giải thích ... dựa theo mẫu qui định.
    Đối với các bản đồ chuyên đề, trong khung bản đồ có thể bố trí bản chú thích, tài liệu tra cứu, đồ thị, bản đồ phụ ... Tên bản đồ, tỷ lệ ... cũng có thể đặt ở trong khung.
  10. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    2.4. Phân mảnh bản đồ
    Phụ thuộc vào tỷ lệ và lãnh thổ mà bản đồ có thể nằm trên 1 hoặc nhiều mảnh. Bản đồ địa hình chính là loại bản đồ nhiều mảnh có cách phân mảnh và đánh số được qui định chặt chẽ, có thể phân mảnh bản đồ hteo lưới kinh vĩ tuyến hoặc theo km, hoặc theo khung bản đồ có kích thước đặt sẵn ...
    Hệ thống đánh số bản đồ nhiều mảnh giúp ta dễ dàng và nhanh chóng tìm thấy các mảnh cần thiết.
    Sự phân mảnh và đánh số các bản đồ địa hình Việt Nam
    ? Bản đồ 1: 1.000.000 có khung hình thang 40 theo vĩ độ 60 theo kinh độ được đánh số bằng tên đai và tên múi theo cách đánh số của bản đồ quốc tế 1: 1000T, các đai 40 theo vĩ tuyến được đánh số từ xích đạo lần lượt từ A đến V. Các múi 6 0 theo vĩ tuyến được đánh số từ kinh tuyến 1800 ngược chiều kim đồng hồ từ 1 đến 60.
    Ví dụ : F- 48, F- 49...
    ? Bản đồ 1: 1000000 là cơ sở để phân mảnh và đánh số các bản đồ tỷ lệ lớn hơn.
    ? Mảnh bản đồ 1: 1000000 chia làm 4 mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 500.000, đánh số A,B,C,D. Số liệu của mảnh 1: 500.000 là số hiệu 1: 1T+ số hiệu mảnh hình thang : F-48 - A,F- 48-B.
    ? Mảnh bản đồ 1: 1.000.000 chia ra làm 36 mảnh bản đồ 1: 200.000 được đánh số hiệu bằng chữ số La Mã :
    Ví dụ : F-48-xI.
    ? Mảnh bản đồ 1: 1.000.000 chia ra làm 144 mảnh bản đồ 1: 100.000 đánh số bằng chữ Ả Rập F - 48- 143.
    ? Mảnh bản đồ 1: 100.000 hạn chế bởi hình thang 20x30 là cơ sở để phân mảnh và đánh số các tỷ lệ lớn hơn.
    ? Mảnh bản đồ 1: 100.000 chia ra làm 4 mảnh 1:50.000 đánh số A,B,C,D; F-48-143-A, 10,15
    ? Mảnh 50.000 chia ra làm 4 mảnh 1: 25.000; đánh số a,b,c,d; F-48-143-A-b 5,7,5
    ? Mảnh 25.000 chia ra 4 mảnh 1: 10.000 đánh số 1 đến 4.
    Ví dụ : F-48-143-A-b-1,2,5,3,75
    ? Mảnh 1:100.000 chia ra làm 384 mảnh 1: 5.000 đánh số từ 1 đến 324
    Ví dụ : F-48-143-(322)
    ? Mảnh 1:5000 chia ra làm 6 mảnh 1: 2000 đánh số từ a đến f
    2.5. Phân loại bản đồ
    Để tiện lợi chi việc nghiên cứu, bảo quản và sử dụng các loại bản đồ địa lý, các loại bản đồ địa lý được phân loại theo nhiều dấu hiệu:
    a. Theo nội dung :
    Phân làm 2 nhóm lớn : Bản đồ địa lý chung và bản đồ chuyên đề :
    Bản đồ địa lý chung : là bản đồ địa lý biểu thị toàn bộ các yếu tố cơ bản của lãnh thổ, mức độ chi tiết phụ thuộc vào tỷ lệ và mục đích sử dụng bản đồ địa hình chính là những bản đồ địa lý chung tỷ lệ lớn.
    b. Theo tỷ lệ :
    Phân ra làm tỷ lệ lớn, trung bình và tỷ lệ nhỏ. Sự phân loại này có tính chất tương đối, không cố định, phụ thuộc vào nhómì nội dung. Đối với bản đồ địa lý chung phân ra :
    - Bản đồ địa lý chung tỷ lệ trung bình: 1:200.000- 1: 1.000.000 bản đồ hình khái quát
    - Bản đồ địa lý chung tỷ lệ nhỏ < 1: 1.000.000 bản đồ khái quát
    - Bản đồ địa lý chung tỷ lệ lớn > 1: 200.000 bản đồ địa hình
    Các bản đồ địa hình lại phân ra :
    - Bản đồ địa hình tỷ lệ nhỏ 50,100 T
    - Bản đồ địa hình tỷ lệ trung bình 10,25T
    - Bản đồ địa hình tỷ lệ lớn 5.2T
    - Sơ đồ 1 : 1000,1: 500
    c. Mục đích sử dụng
    - Bản đồ nhiều mục đích sử dụng
    - Bản đồ chuyên môn. Dùng để giải quyết những nhiệm vụ nhất định hoặc đáp ứng các đối tượng sử dụng nhất định.
    z Thuộc vào loại này có các bản đồ :
    , Các bản đồ tra cứu
    , Bản đồ giáo khoa
    , Bản đồ quân sự
    , Bản đồ du lịch
    , Bản đồ giao thông
    , Bản đồ đánh giá thiết kế
    , Bản đồ dự báo
    d. Theo mức độ bao quát lãnh thổ
    Phân ra bản đồ bao quát thế giới, châu lục, khu vực, quốc gia, tỉnh...
    e. Theo tính chất sử dụng
    - Bản đồ treo tường
    - Bản đồ Atlat
    f. Phân loại theo đề tài
    Theo đề tài cáv bản đồ chuyên đề được phân làm 2 nhóm lớn : bản đồ các hiện tượng tự nhiên và bản đồ kinh tế xã hội.
    * Các bản đồ tự nhiên
    ? Địa chất: địa chất chung, địa chất thủy văn, địa chất công trình, địa tầng, kiến tạo, thạch học, khóang sản, địa hoá
    ? Địa hình mặt đất : địa mạo, đẳng cao, độ sâu
    ? Khí hậu; lượng mưa, khí tượng
    ? Địa vật lý
    ? Hải dương
    ? Thủy văn
    ? Thổ nhưỡng
    ? Thực vật
    ? Động vật
    ? ..
    Bản đồ các hiện tượng xã hội
    ? Bản đồ dân cư: phân bố dân cư, thành phần dân cư, di chuyển dân cư, nhân chủng học, phân bố và thành phần lao động
    ? Bản đồ kinh tế : Bản đồ kinh tế chung, tài nguyên thiên nhiên ...
    ? Bản đồ giáo dục, văn hoá,y tế
    ? Bản đồ hành chính- chính trị
    ? Bản đồ lịch sử
    ? Bản đồ môi trường và bảo vệ môi trường.
    Bản đồ kỹ thuật
    Thiết kế , hàng hải, hàng không, địa chính.
    Sự phân loại trên bản đồ có tính chất tương đối tùy theo mục đích sử dụng mà các yếu tố nội dung của bản đồ chuyên đề có thể thay đổi.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này