1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kinh Dịch: Sắc Màu Thời-Không Tâm Lý (học) hiện đại

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 02/06/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    Đôi dòng về KN cung Hoàng Đạo Trong chiêm tinh học và thiên văn học
    Trong chiêm tinh học và thiên văn học thời cổ, các cung Hoàng Đạo là một vòng tròn 360 độ và được phân chia làm 12 nhánh, mỗi nhánh tương ứng với một cung, góc 30 độ.
    Khái niệm Cung Hoàng Đạo được tạo ra bởi các nhà chiêm tinh học Babylon cổ đại từ những năm 1645 trước Công nguyên.
    Vòng tròn 12 cung Hoàng Đạo hoàn hảo với 12 cung tương xứng với bốn mùa và 12 tháng.

    Theo các nhà thiên văn học thời cổ đại, trong khoảng thời gian chừng 30 - 31 ngày, Mặt Trời sẽ đi qua một trong mười hai chòm sao đặc biệt.

    Ai sinh ra trong thời gian Mặt Trời đi qua chòm sao nào thì họ sẽ được chòm sao đó chiếu mệnh và tính cách của họ cũng bị chòm sao ảnh hưởng nhiều.
    12 chòm sao tạo thành 12 cung trong vòng tròn Hoàng đạo, có nghĩa "Đường đi của mặt trời".

    Hoàng đạo trong thiên văn học cổ đại (còn có tên là Thiên Hoàng Đạo) tức là quỹ đạo chuyển động của mặt trời trên bầu trời mà người xưa qua sát được. Qua quỹ đạo đó thấy đường đi của mặt trời trong một năm có những khoảng cách khác nhau, lấy quỹ đạo đó mà phân định mùa và khí tiết. Thuyết Nhị thập bát tú cũng có nguồn xuất phát từ Hoàng Đạo.

    Các cung được phân chia làm bốn nhóm yếu tố (Lửa, Nước, Khí, Đất), mỗi nhóm yếu tố gồm 3 cung đại diện cho các cung có tính cách tương đồng với nhau.

    [​IMG]

    Cung hoàng đạo của chiêm tinh học và Chòm sao hoàng đạo của thiên văn học
    Xuất phát từ việc quan sát bầu trời, con người nhận thấy Mặt trời hàng năm di chuyển đúng một vòng trên bầu trời so với bầu trời sao (có chuyển động này là do Trái đất quay một vòng quanh Mặt trời trong một năm). Đường đi này của Mặt trời vẽ nên trên bầu trời một đường tròn khép kín gọi là đường Hoàng đạo.

    Bởi vì cả Hệ Mặt trời với các hành tinh đều nằm gần như trên cùng một mặt phẳng quay xung quanh Mặt trời nên khi quan sát từ Trái đất, các hành tinh cũng di chuyển gần với đường Hoàng đạo của Mặt trời với độ sai lệch tầm 8-9 độ.

    Dải bầu trời mở rộng 8-9 độ ra hai bên đường Hoàng đạo là Hoàng đới.

    [​IMG]

    Hoàng đạo (màu đỏ) và Hoàng đới bao quanh Trái đất.

    Qua quan sát bầu trời, người cổ đại tưởng tượng ra các hình ảnh bằng cách nối các ngôi sao sáng lại với nhau, tạo thành các chòm sao trên bầu trời.

    Thời Hy Lạp cổ đại, Ptolemy đã tổng kết được 48 chòm sao ứng với các nhân vật gắn với các truyền thuyết của loài người. Tuy nhiên, các chòm sao lúc đó không hề có một ý nghĩa khoa học nào.

    Để tính lịch trong một năm, các nhà thiên văn học cổ đại đã chia Hoàng đới ra làm 12 phần bằng nhau gọi là 12 Cung hoàng đạo, tính từ điểm Xuân phân (điểm trên Hoàng đạo mà Mặt trời đi tới vào ngày Xuân phân).

    Các Cung hoàng đạo được gọi theo tên chòm sao nằm trên hoặc gần đường Hoàng đạo, chiếm độ dài lớn nhất của đường Hoàng đạo trong cung đó. (Vào thời điểm gần 3000 năm trước, điểm Xuân phân nằm ở gần chòm sao Bạch Dương (Aries) cho nên nó được tính là Cung hoàng đạo đầu tiên).

    Các sao trên cung Hoàng Đạo vốn không có hàm ý sao tốt hay sao xấu. Nhưng theo tâm lý của người xưa: Mặt trời tức Ông trời. Mặt trời là vật hữu hình, Ông Trời là vô hình, Mọi người, mọi vật, mọi việc mọi điều hoạ phúc trên đời này đều do ông Trời đầy đủ quyền uy quyết định. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm trên đường đi của ông Trời qua từng chặng đường tất phải có các vị thần hộ vệ, mỗi vị thần là 1 ngôi sao, các thần có thần thiện thần ác, mỗi thần chyên lo một việc do ông Trời giao phó. Vì vậy trong 12 giờ có 12 vị thần sát, các vị thần sát cũng luân phiên trực nhật mỗi vị 1 ngày trong tháng trong năm.
    Đường thần thiện đi gọi là Hoàng Đạo, đường thần ác đi gọi là Hắc Đạo.

    (Cái này lấy trên Internet)
    trungkhung thích bài này.
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    Đôi đìeu về Vũ Trụ quan - Thiên Văn học Phương Đông
    1. NHỮNG TÀI LIỆU VÔ GIÁ

    Năm 2004, Bảo tàng Anh quốc công bố tấm bản đồ sao cổ hoàn chỉnh nhất thế giới, tìm thấy ở Đôn Hoàng, Trung Quốc năm 1907, được làm vào đời Đường, khoảng năm 600. Tấm bản đồ là một cuộn giấy rộng 25cm, dài 2,1m vẽ và chú thích tên chi tiết bằng tiếng Hán1345 ngôi sao, phân thành257 chòm. Cho đến tận thời Phục Hưng ở châu Âu, trước khi có kính thiên văn, chưa bao giờ có một bản đồ sao chính xác và chi tiết đến thế. Trong đó có nhiều ngôi sao gần như không thể thấy được bằng mắt thường.
    ( Theo tin Vnexpress: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/05/3B9D2329/)
    Vũ trụ trong quan niệm của người Trung quốc, "vũ" là chỉ 4 phương, còn "trụ" là chỉ thời gian từ cổ đến kim, như vậy vũ trụ bao gồm cả không gian và thời gian, trong không gian vô tận và thời gian vô cùng đó, vạn vật luôn vận động và phát triển. Với đặc trưng nền nông nghiệp lúa nước, có thể nói mọi người nông dân đồng bằng Hoàng Hà đều đã là những người quan sát tự nguyện để phục vụ việc canh tác. Khi các hình thức nhà nước được thiết lập, vì mê tín và muốn củng cố địa vị ?ocon trời?, nên một trong những việc đầu tiên của các vị Thiên tử là tập hợp những người có kiến thức thiên văn phù trợ cho mình trong việc mong muốn tìm hiểu ý trời.
    Các ý kiến về quan sát thiên văn sớm nhất ở Trung Hoa không thống nhất. Có người đẩy về tận năm 6000 TCN, mà dấu tích còn lại trên một vài vách đá, hoặc một số bài thơ truyền miệng. Đa số cho rằng nó vào khoảng thế kỷ 24 TCN, với dấu tích là các giáp cốt văn (ghi trên xương thú, mai rùa).
    Người Trung quốc cổ xưa đã biết dùng sự dổi thay vị trí của bảy sao Bắc đẩu để định ra bốn mùa: khi cán gáo hướng về đông là lúc mùa xuân đến, khi cán gáo hướng về nam là lúc hè sang, khi cán gáo hướng về tây là lúc mùa thu còn khi cán gáo hướng về bắc là lúc mùa đông về .

    Ngay từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên (TCN), các đài quan sát thiên tượng đã được dựng ở kinh đô các quốc gia sơ khai. Các ghi chép bắt đầu rõ ràng vào khoảng đời nhà Thương - 1500 TCN. Thời điểm này có có ý kiến là do có sự giao lưu với văn hóa Babylon, tuy nhiên trong khi nền văn hóa Babylon gần như không còn để lại dấu tích nào về thiên văn, thì người Trung Hoa lại gìn giữ những ghi chép liên tục cho đến tận ngày nay.
    Lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi (221 TCN), đã trọng dụng ngay 300 người làm nghề xem sao. Dù lúc đầu chỉ là xem sao, tính lịch và bói toán, nhưng dần dần với thiên hướng ghi chép lại mọi sự vật hiện tượng diễn ra, các chiêm tinh gia đã chuyển thành nhà thiên văn học, đứng đầu là các quan Thái sử, đảm nhiệm chép sử, xem thiên tượng, làm lịch, tính ngày, xem địa lý và cả khí tượng
    Cac nhá thiên văn học cổ Trung quốc đã biết chế tạo các máy đo đạc thiên văn, định vị vị trí các thiên thể trên bầu trời bằng cách xác định các toạ độ và căn cứ vào sự biến đổi góc độ giữa các thiên thể để định ra thời gian và làm lịch.
    Hơn hai nghìn năm trước vào thời xuân thu chiến quốc, nhà triết học Trung quốc Tuần Tử đã khai quát kết quả quan sát thiên văn của người trước bằng bốn chữ "thiên hành hữu thường". ?oThiên? là bầu trời là vũ trụ, ?oHành? là vận động, ở đây chỉ sự vận động của các thiên thể. Còn ?ohữu thường? là vĩnh hằng và có qui luật.
    "Thiên hành hữu thường "có nghĩa là sự vận động của thiên thể là vĩnh hằng và tuân theo các qui lauạt nhất định.
    Người TQ cổ đại đã chia các chòm sao theo các phương vị. Từ đời Chu về trước đã đặt tên các sao.
    Có 28 sao rất sáng gọi làNHỊ THẬP BÁT TÚ(28 Sao)chia thành 4 khu vực quanh hoàng đạo (tất nhiên không sáng bằng 11 Đại diệu: Thái DƯƠNG, Thái Âm, Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ, La hầu, Kế đô, Khí, Bột). Bên cạnh đó làTam viên: ba chòmTử vi, Thái vi, Thiên thị.


    Xem https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhị_thập_bát_tú

    -
    Thứ nhất, Nhị thập bát túkhôngphải là 28 “chòm” sao, mà là28 ngôi sao, chia thành 4 chòm, mỗi chòm 7 ngôi, mỗi chòm tương ứng với 1 cung, mỗi cung lại tương ứng với một phương và một mùa trong năm:
    Huyền Vũ– rùa đen, phương bắc, xuất hiện vào mùa đông;
    Chu Tước– sẻ đỏ, phương nam, xuất hiện vào mùa hè;
    Thanh Long– rồng xanh, phương đông, xuất hiện vào mùa xuân
    Bạch Hổ- hổ trắng, phương tây, xuất hiện vào mùa thu.
    Cung Huyền Vũ phương Bắc.
    [​IMG]



    - Thứ hai, Nhị thập bát túkhôngnằm trên đường Hoàng Đạo mà nằm theochiều dọc(có thể coi như vuông góc với Hoàng Đạo). Đây là điều đặc biệt của hệ thống thiên văn phương Đông, khi chia các chòm sao theo chiều dọc, được gọi là “Hệ thống thiên văn hàng dọc” bởi nhà thiên văn học L. de Saussure (em trai nhà ngôn ngữ học F. de Saussure) để phân biệt với hệ thống theo chiều ngang của thiên văn học phương Tây.

    - Thứ ba, chòm Bắc Đẩukhôngnằm trong chòm Huyền Vũ. Chính xác hơn thì Bắc Đẩukhôngnằm trong hệ thống Nhị thập bát tú, mà nằm gần như trên một đường thẳng vuông góc với mặt phẳng chứa 4 chòm sao đó. Đây là điều vô cùng quan trọng, vì người phương Đông căn cứ vào đuôi của chòm Bắc Đẩu và vị trí tương đối của nó đối với Tứ cungmà tínhra tháng, ra mùatrong năm.
    Lần cập nhật cuối: 10/03/2016
    trungkhung thích bài này.
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    Tương quan của chòm SaoNHỊ THẬP BÁT TÚ& đường Hoàng đạo được trình bày theo dòng Link sau:
    https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhị_thập_bát_tú
    Chòm SaoNHỊ THẬP BÁT TÚcó ảnh hưởng rất lớn đến Văn hoá những nước Hán hoá như TQ, Việt, Hàn, Nhật vv...
    4 khu vực củaNHỊ THẬP BÁT TÚtương ứng với
    4 phương vị, bốn màu sắc,
    bốn linh vật làThanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ,
    mỗi phương 7 ngôi sao mang tên các con vật.

    Đông Phương: khu vựcThanh Long (rồng xanh)phương và màu củaMộc; bao gồm:
    1. Giác Mộc Giảo (cá sấu)
    2. Cang Kim Long (rồng)
    3. Đê Thổ Bức (dơi)
    4. Phòng Nhật Thố (thỏ)
    5. Tâm Nguyệt Hồ (cáo)
    6. Vĩ Hoả Hổ (hổ)
    7. Cơ Thuỷ Báo (báo)


    Bắc Phương: khu vực củaHuyền Vũ (rùa đen)phương và màu củaThuỷ.
    8. Đẩu Mộc Giải (con giải)
    9. Ngưu Kim Ngưu (trâu)
    10.Để Thổ Lạc (nhím)
    11.Hư Nhật Thử (chuột)
    12.Nguỵ Nguyệt Yến (chim yến)
    13.Thất Hoả Trư (lợn)
    14.Bích Thuỷ Dư (cừu)

    Tây Phương: khu vực Bạch Hổ (hổ trắng) phương và màu củaKim:
    15.Khuê Mộc Lang (chó sói)
    16.Lâu Kim Cẩu (chó nhà)
    17.Vị Thổ Trệ (chim trĩ)
    18.Mão Nhật Kê (gà)
    19.Tất Nguyệt Ô (quạ)
    20.Chuỷ Hoả Hầu (khỉ)
    21.Sâm Thuỷ Viên (vượn)


    Nam Phương: khu vực củaChu Tước (chim sẻ đỏ)phương và màu củaHoả:
    22.Tỉnh Mộc Hãn (bò)
    23.Quỷ Kim DƯƠNG (dê)
    24.Liễu Thổ Chương (cheo)
    25.Tinh Nhật Mã (ngựa)
    26.Trương Nguyệt Lộc (hươu)
    27.Dực Hoả Xà (rắn)
    28.Chẩn Thuỷ Dẫn (giun)


    Trong 28 ngôi sao thì có 9 con là thú nuôi, một con sống trong nhà nhưng không phải thú nuôi (chuột), 17 con thú hoang và một con thần thoại (rồng);
    Tương tự như 12 con giáp vậy.

    12 cung Hoàng Đạo tương ứng vớiNHỊ THẬP BÁT TÚđại khái như sau:
    1. Aries (Bạch DƯƠNG) : Lâu, Vị
    2. Taurus (Kim Ngưu) : Mão, Tất.
    3. Gemni (Song Tử): Chủy, Sâm, Tỉnh.
    4. Cancer (Cự Giải) : Quỉ, Liễu, Tinh.
    5. Leo (Sư Tử) : Chương, Dực, Chẩn.
    6. Virgo (Xử Nữ) : Giác, Cang.
    7. Libra (Thiên Xứng) : Đê, Phòng, Tâm.
    8. Scorpio (Thiên Yết) : Vĩ, Cơ.
    9. Sagittarius (Nhân Mã) : Đẩu Ngưu.
    10. Capricorn (Ma Yết) : Nữ, Hư.
    11. Aquarius (Bảo Bình) : Nguy, Thất.
    12. Pisces (Song Ngư) : Bích, Khuê.

    CỔ THIÊN VĂN ĐÔNG PHƯƠNG & KINH DỊCH

    ~ Đóng góp CỔ THIÊN VĂN ĐÔNG Á đối với KINH DỊCH fải nói là đậm nét trong việc hình thành các BT CỦA BÁT QUÁI & trong việc đo đạt vị trí (không gian địa lý) & xác định Thời gian:
    trungkhung thích bài này.
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    Những dụng cụ dùng trongThiên văn học cổ Trung Hoa

    Nói về thiên văn học cổ Trung Hoa, ít có người nghĩ rằng người xưa cũng đã có nhiều dụng cụ và nhiều phương pháp để quan sát tinh tượng, ghi chú thời gian, đo đạc vòm trời, v.v.
    1.CÂY GẬY NÊU và THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭)
    1 DỤNG CỤ ĐƠN GIÃN: CÂY GẬY NÊU (biểu can) và THỔ KHUÊ (gnomon and gnomon shadow template; gnomon et tablette).
    CÂY GẬY NÊU tên chữ làbiểu canhoặcbi, hoặcbễ, hoặcbài.

    Thoạt kỳ thủy, nó chỉ là một khúc cây thẳng, dài ngắn khác khác nhau tùy thời, dùng để cắm xuống đất mà đo bóng mặt trời từ xa xưa.

    Mới đầu, người ta dùng biểu can dài 10 thước (khoảng 2m4); khoảng từ năm 600 đến 800 tcn.[2]
    [​IMG]

    Dùng THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭) và Biểu Can để đo nhật ảnh, xác định ngày Đông Chí.

    Tới khoảng thế kỷ 2 tcn, người ta chấp nhận một loại biểu can chính thức dài 8 thước (khoảng 1m64).

    Đến đời nhà Nguyên (1280-1333) người ta lại còn dùng những biểu can dài 40 thước, hoặc xây những trắc ảnh đài cao lớn đồ sộ để đo bóng mặt trời.

    Hiện nay ở Dương Thành còn có loại trắc ảnh đài nói trên, tục truyền do Chu Công khởi tạo; sau này đến đời Nguyên, Quách Thủ Kính đã cho xây cất, sang sửa lại, và đến đời Minh cũng được tân trang lại.


    Dùng biểu can 8 thước để đo bóng mặt trời trưa ngày Hạ Chí ở vĩ tuyến Lạc Dương, ta sẽ được một bóng dài 1 thước 55 (tức 36 cm). Nếu dùng một biểu can dài 10 thước, ta sẽ được một bóng dài 1 thước 94. Muốn đo bóng cho chính xác, người ta dùng những miếng ngọc gọi là THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭).

    Henri Michel đã tìm ra được những miếng ngôc THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭).

    - Một thứ dài 36 cm (1thước 55).

    - Một thứ dài 44 cm (1thước 94).

    Nhưng sách Chu Lễ cho rằng: nếu CÂY GẬY NÊU dài 8 thước thì bóng sẽ là 1 thước 5, như vật THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭) chính thức cũng phải là 1thước 5 (nếu bóng được đo ở Dương Thành, cách Lạc Dương 50 dăm về phía Đông Nam).

    Theo nguyên tắc, cây nêu phải được cắm trên một mặt phẳng. Linh mục Du Halde mô tả biểu can thấy ở Thiên văn đài Bắc Kinh hồi thế kỷ 17 như sau:

    «Ở thiên văn đài Bắc Kinh có một cột đồng hình trụ cao 8 thước 3 tấc, dựng trên một mặt bàn đồng dài 18 thước, rộng 2 thước, dày 1 tấc. Bàn đó được chia làm 17 thước bắt đầu từ chân cột đồng; mỗi thước chia thành 10 tấc; mỗi tấc chia thành 10 phân.

    «Chung quanh bàn có một đường soi, rộng và sâu chừng ½ đốt ngón tay. Người ta đổ nước đầy vào đường soi ấy để đánh thăng bằng và kê bàn cho phẳng. Dụng cụ này xưa dùng để đo bóng kinh tuyến.

    «Nhưng theo đà thời gian cột đồng này đã bị nghiêng, không còn thẳng góc với mặt bàn nữa.»[3]

    Trong quyển Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử của Joseph Needham, tập 3, tr.300, ta thấy có hình chụp biểu can này.

    Đọc đoạn này ta thấy:

    - Biểu can làm bằng đồng.

    - THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭) biến thành mặt bàn có ghi thước tấc.

    - Ngoài ra còn có đường soi để đánh thăng bằng.

    Khảo sát lại trắc ảnh đài ở Dương Thành do Quách Thủ Kính xây năm 1276 và đến đời nhà Minh được trùng tu lại, ta thấy:

    - Biểu can 40 thước được đặt giữa đài. Trên biểu can có một lỗ để cho ánh mặt trời soi qua.

    - THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭) đây là một thước đá dài xây trên mặt đất gọi là lượng thiên xích.
    - Trên mặt đá có những đường rãnh song song để đựng nước.

    Tóm lại biểu can có thể bằng cây, bằng đồng, bằng gạch; THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭) có thể bằng đất nung, bằng ngọc dài 1th5, hoặc 1th94, hoặc là những bàn bằng đồng, bằng đá có ghi sẵn thước tấc.
    trungkhung thích bài này.
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    Công dụng của cây gậy nêu & Cái Bóng gậy nêu
    Từ thời TIỀN & sơ sử; CÂY GẬY NÊU và THỔ KHUÊ là 1 dụng cụ đơn sơ đo ánh sáng mặt trời dùng cái bóng gậy
    Cụm từ "Trắc thổ thâm " là cách dùng Thổ khuê để biết được bóng nắng dài hay ngắn, ...
    Các Học Gỉa Xuân quan - Điển thụy " ghi: "Thổ khuê dĩ chí tứ thời nhật nguyệt, phong quốc ...

    1. Xem bóng mặt trời dài ngắn bao nhiêu

    Một công dụng giản dị nhất của CÂY GẬY NÊU chính là để xem bóng mặt trời dài ngắn bao nhiêu để áng chừng là mấy giờ trong ngày. Xưa ở Việt Nam trong các sân nhà quan, nhà giàu thường dựng CÂY GẬY NÊU, để biết giờ mà thổi cơm cho thợ gặt ăn cho kịp giờ trưa.

    [​IMG]
    « CÂY GẬY NÊU
    2. CÂY GẬY NÊU cốt là để đo bóng mặt trời để xác định các ngày Đông Chí, Hạ Chí, Xuân Phân, Thu Phân, v.v.
    Theo Đổng Tác Tân, tác giả bộ Ân đại chi lịch pháp nông nghiệp dữ khí tượng,
    từ đời Thương người ta đã biết dùng CÂY GẬY NÊU để đo bóng mặt trời.
    Xuân Thu Tả Truyện viết: «Năm thứ 5 đời Hi Công (654) mùa xuân, mồng 1, tháng giêng, ngày Tân Hợi, mặt trời tới cực Nam.Hi Công truyền báo cáo ngày sóc; sau đó vua lên quan sát đài để xem [bóng nêu] và [các thiên văn gia] ghi [độ dài của bóng] như thường lệ. Các ngày Đông Chí, Hạ Chí, cũng như các ngày Xuân, Thu Phân, và các ngày đầu mùa Xuân Hạ (khải) đầu mùa Thu Đông (bế) đều ghi chú các hiện tượng mây để dự phòng và tiên liệu.»

    Trong Thi Kinh ta cũng thấy đề cập đến công dụng của CÂY GẬY NÊU. Xưa người ta dùng cây nêu đo bóng mặt trời, để định phương hướng. (Xem Thi Kinh- Dung Phong, bài Đính chi phương trung.)

    Lê Quí Đôn, trong Vân Đài Loại Ngữ, có ghi chú nhiều tài liệu về công dụng của cây nêu ở Trung Hoa. Thiên Hình Tượng của sách Vân Đài Loại Ngữ viết:

    «Sách Thượng Thư vĩ khảo tinh diệu chép rằng: ‘Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 th 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 th 3 tấc.’ Sách Dịch Vĩ nói: ‘Ngày Đông Chí trồng một CÂY GẬY NÊU cao 8 thước, đến trưa xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ Chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông Chí bóng dài 1 trượng 3 thước.» [4]

    «Sách Chu Bễ nói: Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ Chí, bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông Chí, dài 1 trượng 5 thước 5 tấc.» [5]

    3. Đo bóng mặt trời để xác định ngày Phân, ngày Chí

    Xác định được ngày Phân, ngày Chí bằng cách đo bóng mặt trời, sẽ giúp ta làm được lịch.Lịch Thụ thời hay Thái Sơ đời Hán Nguyên Đế (148-33 tcn) do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm đã căn cứ vào bóng mặt trời. Lê Quí Đôn viết: «Quĩ ảnh (cột đo bóng mặt trời) lấy cọc đánh dấu đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.» [6]

    (*) Vận động lặp đi lặp lại (có chu kỳ) của cái bóng gậy nêu cùng Việc ghi chép Bóng mặt trời & sự hình thành các BT Bát Quái.
    Xem: http://ttvnol.com/threads/tam-ly-hoc-moi-truong-cu-ma-lai-moi-tiep.590142/#post-13833271
    trungkhung thích bài này.
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    ViệcĐo bóng mặt trời để xác định thời gian làDo sự tình cờ ngẫu nhiên, Ng cổ đại đã nhận xét rằng bóng của một thân cây bị cụt ngọn biến đổi khi mặt trời di chuyển trên bầu trời. Tương tự, khi cắm một cây gậy thẳng đứng trên mặt đất, bóng cây gậy cũng di chuyển và chiều dài của bóng này thay đổi trong ngày.
    Khi bóng của cây gậy ngắn, Ng cổ đại biết rằng đây là lúc gần trưa còn khi bóng dài, họ biết rằng ngày bắt đầu hay sắp hết.
    Bằng cách dùng các hòn đá, người thời cổ xưa đã đánh dấu vị trí của bóng mát này. Như vậy dụng cụ sơ sài dùng để đo thời gian đã thành hình hơn 4,000 năm về trước và K0 fải chỉ riêng tại Đông Phương, tại tây Phương người ta gọi nó là “đồng hồ mặt trời” (sundial).
    Nhà thiên văn miền Chaldée tên là Berossus đã mô tả đồng hồ mặt trời vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch.

    4. Đo bóng CÂY GẬY NÊU để định khoảng cách giữa các tỉnh, THÀNH PHỐ

    Nguyên tắc: Chọn một thành phố làm tâm điểm để tiện việc so sánh. Xưa người ta chọn Dương Thành cách Lạc Dương 50 dặm về phía Đông Nam, ở vĩ tuyến 34o26.
    - Đo các thành phố trên cùng một đường kinh tuyến.
    - Dùng CÂY GẬY NÊU cùng một loại kích thước.
    - Định xem hai thành phố cách nhau một ngàn dặm thì chênh nhau bao nhiêu tấc bóng.

    Trương Hoành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích cho rằng 1 tấc bóng ăn 1.000 dặm.
    Hà Thừa Thiên toán rằng cứ 3 tấc 56 bóng mới ăn 1.000 dặm. Lưu Trác cũng đồng quan điểm như vậy.
    Nhất Hạnh và Nam Cung Thuyết toán rằng ngót 4 tấc bóng mới ăn 1.000 dặm.

    Dẫu sao thì lịch sử cũng cho thấy người Trung Hoa xưa thường đo bóng nêu ở khắp các tỉnh, các miền họ đến.

    Năm 445, Hà Thừa Thiên đo bóng nêu ở Giao Châu (Hà Nội) và cho hay Giao Châu cách Dương Thành 5.000 dặm.
    Năm 349, Quán Thúy đo bóng nêu ở Chiêm Thành khoảng vĩ tuyến 13o(Tuy Hòa) hoặc vĩ tuyến giữa 17o05 và 19o35 (khoảng Đồng Hới - Thanh Hóa).
    Trong khoảng những năm từ 721 đến 725, Nam Cung Thuyết và Nhất Hạnh cũng đo bóng nêu ở nhiều nơi từ vĩ tuyến 17o4 (gần Đồng Hới) cho đến vĩ tuyến 40o, tại Weichow, gần Vạn Lý Trường Thành, và kết luận:
    - 1olà cách 351 dặm 80 bộ.
    - Gần 1 tấc bóng là 1.000 dặm cách xa.

    Vân Đài Loại Ngữ ghi: «Khi tăng Nhất Hạnh làm lịch Đại Diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng khắp thiên hạ mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu Quan (sách) dùng THỔ KHUÊ (gồm 2 chữ Thổ _ 圭) (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy về phía Nam xứ Đái Nhật Hạ, xa cách 15.000 thì sai mất 1 thước 5 tấc. Đất cùng với tinh thần tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung. Đĩnh Xuyên quận, đất Dương Thành ngày nay, tức là địa trung đó.

    «Trong khoảng năm Nguyên Gia (424-454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng CÂY GẬY NÊU để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc CÂY GẬY NÊU; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam CÂY GẬY NÊU 3 tấc. Năm Khải Nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông) đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ Chí, thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc 3 phân, cùng với sự đo vào năm Nguyên Gia nói trên giống nhau.»[9]
    trungkhung thích bài này.
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    ~ Tài liêu Tham Khảo:
    [1]Tây Hán Diễn Nghĩa,Thanh Phong dịch, tr.117-118.

    [2]Thước Trung Hoa thoạt kỳ thủy bằng 100 hạt kê xếp liền, tức là khoảng 22 cm 85. Thước nhà Chu dài 21 cm 25, thước nhà Hán dài 23 cm 41.

    [3]J.B. Du Halde,Description géographique, historique, chronologique, politique et physique de l’Empire de la Chine et de la Tartarie chinoise, tập 3, tr.350.
    (*) J. Needham,Science and Civilisation in China (Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử) , Vol.III, p. 300.

    [4]Văn Hóa,Vân Đài Loại Ngữ, q.1, tr.98.

    [5]Ibid. p.89.

    [6]Ibid. p.83-84.

    [7]Cf.Chu li, trad. Biot, vol. I, p. 200; Needham,Science and Civilisation in China (Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử) , Vol.III, p. 286.

    [8]Cf.Hoài Nam Tử, trad. Chatley; J. Needham,Science and Civilisation in China, (Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử) Vol.III, p. 225.

    [9]Lê Quí Đôn,Vân Đài Loại Ngữ, tr. 90-91.
    trungkhung thích bài này.
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    Ý tưởng đo thời gian chỉ xuất hiện cách đây khoảng 5.000-6.000 năm khi con người bắt đầu cuộc sống định cư và xây dựng các nền văn minh.
    Dù cho thời gian có thật hay không, việc canh đo khái niệm này đã trở nên không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Con người đã sáng tạo ra nhiều phương thức để xác định đại lượng này, từ cách thô sơ nhất là dựa vào sự chuyển động của mặt trời &bóng mặt trời để xác định thời giancho đến các đồng hồ nguyên tử siêu chính xác ngày nay.

    Đồng hồ mặt trời& Nhật quĩ.

    a. Dựa vào Mặt trời

    [​IMG]
    Đồng hồ mặt trời.
    Người Ai Cập có lẽ là những người đầu tiên biến việc canh thời gian thành một môn khoa học. Họ xây dựng những cột lớn từ những năm 3.500 trước Công nguyên (TCN) và đặt chúng ở những vị trí thuận lợi để đo được bóng đổ xuống của chúng. Đồng hồ mặt trời hoạt động theo nguyên tắc theo dõi bóng của cái que cắm trên phiến đá thay đổi hướng và độ dài.
    Thuở sơ khai, công cụ này chỉ giúp họ biết được thời điểm nào là giữa ngày, nhưng về sau họ đã nghĩ ra cách để phân chia thời gian thành những phần nhỏ hơn.

    Hai ngàn năm sau, cũng là người Ai Cập nghiên cứu và chế tạo chiếc đồng hồ mặt trời đầu tiên với thiết kế được chia làm 10 phần. Chiếc đồng hồ này hoạt động dựa vào chuyển động của mặt trời. Phần nhô lên trên mặt của nó sẽ đổ bóng xuống mặt đồng hồ và chỉ vào con số đã được khắc. Vào giữa ngày, người ta phải xoay chiếc đồng hồ này 180 độ để nó tiếp tục chỉ giờ chiều. Và dĩ nhiên là chiếc đồng hồ này không thể chỉ giờ vào những ngày âm u hay vào ban đêm.
    Nó cũng không chính xác vì mặt trời ở những góc khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong năm; giờ có thể ngắn hơn hoặc dài hơn tùy thuộc vào mùa. Tuy vậy, đến năm 30 TCN đã có hơn 30 loại đồng hồ mặt trời được sử dụng ở Hy Lạp, Ý, và vùng Tiểu Á. Ngày nay hệ thống tính giờ của chúng ta vẫn dựa vào mặt trời thông qua việc quy ước những múi giờ.

    Đồng hồ mặt trời có nhiều loại, nhiều hình dạng. Thứ đơn giản nhất là một cây gậy cắm thẳng đứng với tên gọi là "cột chỉ giờ " (gnomon). Loại cột này có thứ nhỏ, có thứ lớn như chiếc Kim Cléopatre (Cleopatra’s Needle) hiện nay còn dựng tại công viên , thành phố New York. Cột chỉ giờ đã mang lại nhiều khuyết điểm: trong suốt một năm và ở cùng một giờ trong ngày, Tùy theo mùa bóng nắng sẽ xuất hiện ở cả hai bên mặt đĩa, bóng của cột thay đổi cả về chiều dài lẫn về phương hướng.

    Nữa năm bóng sẽ ở mặt đĩa phía Bắc (mùa hè), và nửa năm còn lại bóng sẽ ở mặt đĩa phía nam (mùa đông).
    Tuy nhiên vào gần các ngày xuân phân và thu phân (equinox) tia nắng của Mặt Trời gần như song song với mặt đĩa và làm cho không nhìn được rõ bóng của kim đổ trên mặt đĩa.

    Mặc dù người ta đã thay đổi cây gậy bằng những "đồng hồ bóng mát” (obélisque) chôn chặt dưới đất, tất cả khuyết điểm trên vẫn còn tồn tại.
  9. thienbao10

    thienbao10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    07/01/2016
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    22
    bài viết rất hay khi nào có thời jan mình sẽ ngồi nghiên cứu cuốn sách này mình rất thích nghiên cứu những cuốn sách như thế này
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.561
    Đã được thích:
    49
    B. Nhật quĩ

    [​IMG]



    Để sửa bớt các điều bất lợi, người thời xưa nghĩ ra các "nhật quỹ” (cadran solaire)
    Trên nguyên tắc, nhật quĩ là một vòng tròn, chung quanh có ghi giờ hoặc ghi khắc. Giữa vòng tròn có một cây trục để lấy bóng mặt trời. Nhật quĩ có thứ để thẳng, có thứ để nghiêng theo độ dốc của đường xích đạo.
    Cũng có thứ nhật quĩ hình chữ nhật. Nhật quỹ này là một thứ đồng hồ mặt trời, gồm có một miếng gỗ vuông nằm ngang và một miếng gỗ cắt chéo đóng thẳng góc với mặt nằm ngang. Miếng gỗ chéo có cạnh chéo song song với trục của quả đất, nghĩa là hướng về ngôi sao Bắc Đẩu. Nhờ điều sau này các bóng mát không thay đổi về phương hướng nữa và người thời cổ có được các độ chia nhất định.
    Cách dùng các nhật quỹ rất đơn giản: khi đặt nhật quỹ ở ngoài nắng, nếu bóng của nhật quỹ sát với cạnh số 9 thì lúc bấy giờ là 9 giờ. Nhật quỹ không phải là dụng cụ đo giờ chính xác và chỉ xử dụng được vào ngày có nắng. Nhật quỹ cần được chế tạo thích hợp với từng địa phương. Có kẻ đã ăn trộm một chiếc nhật quỹ tại Ai Cập và mang về đặt tại Hy Lạp. Tại nơi này, nhật quỹ đó đã chỉ sai giờ khiến cho kẻ ăn trộm phải thắc mắc.

    Nhật quỹ được dùng từ thời xa xưa. Loại nhật quỹ cổ nhất còn sót lại tại Ai Cập được làm từ thế kỷ 15 trước Tây Lịch. Người Ai Cập cũng như người Hy Lạp rất ưa thích loại đồng hồ mặt trời này. Tới thế kỷ 19, các tay thợ sửa đồng hồ còn dùng các nhật quỹ thích hợp để lấy giờ. Người La Mã trái lại đã không chú trọng đến thứ dụng cụ đo thời gian này vì mãi tới năm 491 mà họ còn dùng một cột chỉ giờ cắm trước Hội Trường để giới hạn các bài diễn văn của các nhà hùng biện.

    [​IMG]

    Nhật quĩ hình chữ nhật

    [​IMG]
    Hình trên nhật quĩ

    [​IMG]


    Nhật quĩ đào được ở Lạc Dương

    Tại TQ, Năm 1932, người ta đào được ở Lạc Dương một thứ nhật quĩ để thẳng. Đó là một vòng tròn, có lỗ ở tâm điểm để cắm cọc lấy bóng. Chung quanh vòng tròn chia thành 100độ tức 100 khắc. Nhưng 32/100 thì để trống; 68/100 còn lại chia thành 68 khắc. Khắc đầu và khắc cuối của nhật quĩ này cho thấy hướng mặt trời mọc và lặn ngày Hạ Chí.các

    Trên nhật quĩ này ta còn thấy những hình tương tự như các mẫu tự T, L, V. Cho đến nay người ta cũng chưa biết được ý nghĩa của những hình ấy.

    Có cái lạ nữa là những hình T, L, V này còn được thấy khắc trên cái gương đời Hán, cũng như trên nhiều đồ chơi của người xưa. Nhật quĩ ít nhất là có từ đời Hán.

    Sách Tiền Hán Thư viết: «Các vị bác sĩ họp nhau tại kinh đô, đã định các hướng chính Đông, chính Tây, sử dụng nhật quĩ CÂY GẬY NÊU và lậu khắc.

    Với những dụng cụ ấy, họ định phương vị củaNHỊ THẬP BÁT TÚ, định các ngày hối, sóc, nhị Phân, nhị Chí, sự vận chuyển của tinh cầu và tuần tiết của mặt trăng.»[10]

Chia sẻ trang này