1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sưu Tầm Võ Tây Sơn

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi vobinhdinh, 10/12/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Nhạc võ, võ nhạc Tây Sơn
    Người ta nói nhiều và kể cả làm phim tài liệu về nhạc võ, trống trận, binh pháp và nghệ thuật rèn quân xuất trận của nghĩa quân Tây Sơn, nhưng đi sâu vào nghiên cứu về võ Tây Sơn, Bình Ðịnh thì quả thật còn nhiều điều rất phong phú. Tuy nhiên trong chương trình Thể thao nhân vật và sự kiện đầu năm Nhâm Ngọ, chúng ta hãy đến với các võ sư vùng đất Tây Sơn, Bình Ðịnh để biết thêm về sự khác biệt giữa nhạc võ và võ nhạc Tây sơn, cũng như 2 môn võ truyền thống của anh em nhà Tây Sơn là roi Thuận Truyền, quyền An Vinh.
    Trong chương trình này, quý vị sẽ được nghe và thấy các võ sư chân truyền của Tây Sơn, Bình Ðịnh phân tích rõ về nhạc võ và võ nhạc. Nhạc võ chỉ dùng khi vào trận, nhưng võ nhạc thì chỉ dùng để luyện quân. Trước hết là nhạc võ, bởi đó không phải là loại nhạc thông thường mà người xử dụng phải biết rõ và nắm vững nguyên tắc thiên cang, địa chi, đồng thời phải có căn bản về tiết tấu âm nhạc để có thể sử dụng trên 12 chiếc trống với 1 kèn, tạo thành những khúc nhạc có lúc hào hùng, có khi bi tráng trong từng thời điểm điều khiển binh tướng khi vào trận. Trong nhạc võ Tây Sơn, có 3 hồi chính là xung trận, công thành và khải hoàn. Ngoài phần thuyết minh, các bạn sẽ được xem minh họa từng hồi bởi tay trống Nguyễn Thị Thuận, người ở đời thứ 9 cầm dùi kế tục truyền thống cha ông cùng với sự minh họa của đội nhạc võ đền Ðống Ða, Phú Phong, Bình Ðịnh. Nếu tập trung chú ý, chúng ta có thể hình dung đươc tác dụng của tiết tấu trống, kèn và phèn la nhịp nhàng trong từng hồi xuất quân, hãm thành và ca khúc khải hoàn.
    Võ nhạc thì tương đối phức tạp hơn, vì người sử dụng phải thành thạo từng bài quyền cước và kể cả từng vũ khí sử dụng, nên khi thể hiện phải vận dụng toàn thân phối hợp với quyền và thế để tập cho binh sĩ ngày càng thông thạo võ nghệ trong những lúc dừng quân hoặc tập luyện. Nội dung này chúng ta sẽ xem phần trình bày và minh họa của võ sư Ðinh Văn Tuấn, chủ tịch Hội võ thuật tỉnh Bình Ðịnh.
    Cũng trong chương trình này, chúng ta sẽ lần lượt xem võ sư Hồ Xừng, truyền nhân của cố võ sư Hồ Ngạnh biểu diễn các bài roi chiến và roi đấu của Nguyễn Lữ trong binh khí của Tây Sơn tam kiệt; Võ sư Phan Thọ, hậu duệ của Hương mục Ngạc và Vương kiếm Mỹ cũng sẽ thuyết trình và biểu diễn những bài độc đáo của quyền An Vinh.
    Như vậy trong chương trình thể thao nhân vật và sự kiện đầu năm nhâm Ngọ, chẳng những qúy vị hiểu rõ hơn về nhạc võ, võ nhạc Tây sơn mà còn có dịp thưởng thức những bài biểu diễn độc đáo của 2 ngón võ nổi tiếng nhất thời Tây sơn là roi Thuận Truyền và quyền An Vinh.
    Nguyễn Hồng
  2. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Những Người Gìn Giữ Nét Đẹp Của Võ Cổ Truyền
    Quang Long
    Ðối với người dân Bình Ðịnh, võ thuật đã thâm nhập vào cuộc sống tự bao giờ: từ việc chinh phục thiên nhiên đến chống lại kẻ thù để bảo vệ bờ cõi. Không chỉ tạo nên bao truyền thuyết hào hùng, võ cổ truyền VN còn sống mãi với thời gian bởi những "người thực, việc thực".
    Ở tuổi 63, võ sư Phan Thọ có bề ngoài của một "lão nông tri điền". Học võ từ năm 17 tuổi, nhưng đến bây giờ ông cho biết vẫn chưa hiểu thấu đáo được tất cả tinh hoa của võ cổ truyền VN vốn có ảnh hưởng đậm nét ở vùng đất của anh em nhà Tây Sơn. "Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín là bài học đầu tiên mà tôi đã được tiếp thu từ khi theo nghiệp này", ông nhấn mạnh.
    Tết Nguyên Ðán 1998, một đoàn võ sư Taekwondo đai đen Hàn Quốc đến nhà ông trong chuyến đi nghiên cứu võ học Việt Nam. Trong lúc vui vẻ, họ đưa ra lời thách đấu. Trước một đối thủ trẻ và vạm vỡ, ông đã dùng bộ pháp di chuyển thật linh hoạt để tránh né những đòn chân cực mạnh và nguy hiểm. Lựa thế lúc đối phương hớ hênh sau khi tung một cú đá, ông lòn người xuống tấn công vào hạ bộ đối phương, cu cậu bị đòn đau quá ngã lăn quay vào góc sân nhà. Thế nhưng, kỷ niệm sâu sắc mà ông không bao giờ quên là lần chiến đấu với con heo rừng nặng non 1, 5 tạ cách nay hơn 20 năm. Sau suốt 3 giờ đồng hồ quần thảo, ông đã hạ được con heo rừng phá phách này. "Chiến lợi phẩm" của trận chiến ấy là hai chiếc nanh heo rừng mà ông còn giữ đến giờ.
    Nghiệp võ đối với võ sư Phan Thọ là trách nhiệm truyền lại cho thế hệ mai sau những gì mà ông tiếp thu từ kho tàng võ thuật mênh mông được đúc kết qua bao đời. Ông tâm sự: "Thú thật, sức tôi cũng đã yếu đi nhiều, nhưng tôi không thể nghỉ được. Mỗi lần đứng ngoài xem thấy các cháu tập luyện chưa đúng, tôi lại tức mình, phải vào uốn nắn cho các cháu từng động tác một. Nếu không làm được điều đó, tôi cảm thấy có tội trước tổ của mình".
    Trường hợp của chị Nguyễn Thị Thuận có phần đặc biệt hơn. Ðược làm quen với cây dùi và chiếc trống từ năm lên 10 bằng những bài tập đơn giản, chị đã trở thành "người giữ lại tiếng trống, giữ lại truyền thống quê hương" theo như lời dặn của người cha trước lúc mất. Cha của chị - cụ Nguyễn Ðào - vốn là người chịu trách nhiệm coi sóc đền thờ vua Quang Trung và phụ trách phần lễ nhạc mỗi khi tổ chức cúng lễ hàng năm. Do không có con trai nối dõi (cụ chỉ có 2 người con gái), ông đã dẫn dắt chị đến với nhạc trống Tây Sơn trong những lần "đánh phụ họa". Từ một chiếc ban đầu cho đến khi biểu diễn thành thục với bộ 12 chiếc, chị đã phải mất một thời gian rất dài. Người biết nhạc trống ở vùng đất này thì nhiều, nhưng người có thể biểu diễn một cách thuần thục và điêu luyện trên bộ trống 12 chiếc thì chỉ còn duy nhất một mình chị.
    Khi xem chị biểu diễn nhân dịp kỷ niệm 999 năm Thăng Long - Hà Nội, người xem có cảm giác người phụ nữ có vóc dáng nhỏ bé ấy khó có thể có đủ sức lực cần thiết để điều khiển dàn trống trận 12 chiếc "to đùng" vây kín xung quanh. Thế mà trong nhiều giờ liền, đôi cánh tay nhỏ bé ấy đã "điều khiển" cảm xúc ngườI nghe theo nhịp trống. Ngoài đời, chị "gánh" cả trọng trách gia đình (chồng chị bị bệnh loét dạ dày, không thể làm việc nặng) bằng đồng lương eo hẹp. Dù gia đình gặp nhiều khó khăn, chị vẫn kiên quyết "bám" nghề trong suốt 31 năm qua. Ðể có đủ thể lực và sự khéo léo, hàng ngày chị phải thường xuyên luyện tập đôi tay (cổ tay, khuỷu tay, vai). Khi nói về một điều ước, chị chỉ mong sao có được người kế tục xứng đáng để "mai này con cháu vẫn còn biết đến truyền thống hào hùng của cha ông qua nhạc trống Tây Sơn".
    Có thể những câu chuyện về họ - võ sư Phan Thọ và nhạc công Nguyễn Thị Thuận - chưa phải là những mẩu chuyện tiêu biểu nhất về văn hóa, về con người nơi đây. Nhưng cũng như mọi người dân đất võ, việc gìn giữ và phát huy truyền thống của cha ông là một nghĩa vụ thiêng liêng mà mọi người phải góp sức vào.
    (Hình của cụ Phan Thọ đã được đăng trên trang bìa tạp chí Kung Fu ở Hoa Kỳ, dưới đề hàng chữ: Bình Định Kungfu)
  3. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Mỹ Học và Võ Học Trong Lão Mai Quyền
    VS Trần Xuân Mẫn
    Trong kho tàng võ học Việt Nam, những bài bản mô phỏng cây hoa mai để phổ ra quyền lộ hoặc ít nhiều có đề cập đến loài hoa lưu niên đại thọ này đều là những thảo bộ danh tiếng, có giá trị về kỹ thuật chiến đấu, tính thẩm mỹ trong cấu trúc động tác lẫn giá trị về văn học trong thiệu ngôn. Lão mai quyền là một bản văn truyền khẩu chứa đựng nhiều nhất sự thâm thúy về mỹ học và võ học.
    Mai già đơn độc, nhánh trổ hoa
    Đôi rễ bò lên nhẹ ngang qua
    Khỉ già tiến ngắn lui về đứng
    Chuồn bay thẳng cánh cũng về nhà
    Hổ mài nanh ra oai vuốt sắt
    Rồng giương sừng nỗ lực tấn công
    Khỉ già ngồi ngắm hoa sen rã
    Đôi **** cùng bay, dọp thoát ra
    Trăng lên ngoài cửa đà sấm sét
    Mây phủ ba lần, hổ, rắn qua.
    Bài thiệu được mở đầu với hai câu thơ:
    Lão mai độc thọ nhất chi vinh
    Lưỡng túc khinh khinh tấn bộ hoành.
    Hình ảnh cây mai già đứng riêng lẻ, một nhánh trổ sum sê được khắc họa sù sì, gan góc hơn với những cội rễ gù lên, đang chéo, lại được mô tả một thế võ: Hai chân nhẹ nhàng tiến lên bỏ ngang qua.
    Có thể dịch thoát:
    Mai già đơn độc một nhánh trổ hoa
    Đôi rễ bò lên nhẹ ngang qua
    Ngay từ đầu hình ảnh của một bức tranh tĩnh vật miêu tả sức mạnh mẽ đầy ấn tượng: một cội mai già cỗi đại thọ đứng cô quạnh giữa cái rét của tiết quý đông, chịu bao bão táp mưa sa chỉ còn trơ lại một cành độc nhất mà vẫn trổ hoa rực rỡ. Một cách suy rộng cội mai già là biểu tượng của ý chí bất khuất, quật cường của người võ sĩ, của một dân tộc đất hẹp người thưa đã đấu tranh để tồn tại suốt dòng chảy lịch sử lâu đời.
    Cổ nhân lại dùng phép đảo ngữ để mượn việc nở hoa mà khai bộ:
    Tấn nhất đoản thối hồi lão khởi
    Phi nhất thác hoành thối thanh đình.
    Ngoài từ "thác" có nghĩa là "đẩy" với công dụng hướng dẫn cho một đòn thế võ thuật, tất cả các từ còn lại đều vẽ nên những chi tiết của một khung cảnh thiên nhiên đầy bình yên thanh thản: Khỉ già tiến lên một bước ngắn rồi lui về. Chuồn chuồn bay giạt ngang vòng lại. Cả hai đều dọ dẫm, e dè. Lão mai kỳ vĩ đến thế quả thật không còn cách diễn tả nào phong phú hơn. Lui về và vòng lại ở đây cũng cho thấy đức tính cẩn trọng, khôn khéo của người xưa. Đứng trước một đối thủ khi chưa biết rõ về họ, thì phải tới lui thăm dò, biết người biết ta trăm trận trăm thắng.
    Đến hai câu 5 và 6 thế trận được mở rộng ra phía trước. Người võ sĩ tung hoành với tất cả sức xông pha mạnh mẽ của sức lực và ý chí được ***g trong khung cảnh tả thực vạch ra một kế hoạch tấn công mạnh như hổ như rồng:
    Tràn nha hổ giương oai thiết trảo
    Triển giác long tất lực lôi oanh
    Dịch nghĩa:
    Hổ mài nanh ra oai vuốt sắt
    Rồng giương sừng nỗ lực tấn công
    Động tác của bài quyền và nội dung của lời thiệu như một tấu khúc lúc êm dịu khi sôi nổi, lúc khoan thai khi dồn dập. Bây giờ bức tranh trở lại là một đoạn phim mô tả một cảnh đời tưởng như hiền hòa, an lạc, không còn tranh chấp thị phi:
    Lão hầu thối tọa liên ba biến
    Hồ điệp song phi lão bạng sanh
    Có nghĩa: Khỉ già lui về ngồi nhìn hoa sen tàn. Đôi **** cùng bay khi con dọp già mở đường ra.
    Nội dung của hai câu trên ban bạch một quan điểm nhân sinh về lẽ biến đổi vô thường trong võ học ngầm chứa được một lời nhắn nhủ cho môn đồ đệ tử: mọi sự, mọi vật ở đời đều thực hư khó lường, thắng chẳng nên kiêu để lúc bại bền lòng không nản. Nhưng khỉ lui về "Lão hầu thối tọa" để "liên ba biến", không phải để thúc thủ mà để chờ đối thủ "mở đường ra" và lúc ấy Hồ điệp song phi sẽ khai triển phát huy cái công lực âm nhu mà ào ạt.
    Ý tưởng đó càng được phát triển ở hai câu cuối:
    Nguyệt quật song câu lôi điển chấn
    Vân tôn tam tảo hổ xà thành
    Hai câu này có nghĩa đen: Hai cánh tay xúc lên như vầng trăng hết sức nhanh nhạy. Ba lần quét mây cao. Dương cương, mãnh liệt như hổ; âm nhu, ẻo lả linh hoạt như rắn rồi kết thúc. Nhưng vẫn có thể dịch theo một nghĩa khác: Trăng lên treo (ngoài) cửa sổ mới đó mà sấm sét đã đến rồi. Mây vần vũ ba lần dã thú cũng phải trốn chạy. Thế rồi vẫn Lão mai là độc thọ bất chấp bể dâu.
    Dịch như thế là lãng mạng quá? Cũng có thể là hoa hòe hoa sói quá chăng?... Nhưng cũng nên nhận ra một điều: cả bài thiệu như một bức tranh có nhiều cảnh đời liên kết, thống nhất với nhau. Người luyện võ phải biết hòa mình vào giữa thể thống nhất thiên nhiên, tùy vào hoàn cảnh, tình huống, thời thế mà cương mà nhu, lúc tách rời lúc hòa hợp, lúc dụng võ lúc hành đạo, người luyện võ luôn lấy đức làm trọng. Như cội mai già kia vẫn gan góc giữa thị phi, giữa giông bão vẫn trổ hoa tô đẹp cho cuộc đời. Âu duy nhất một nhánh vàng cũng rực rỡ giữa nhân gian công đức cống hiến cho đời.
  4. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    QUÊ HƯƠNG TRONG TRÍ NHỚ
    NHẠC VÕ TÂY SƠN
    THÁI TẨU
    Tỉnh Bình định là nơi còn giữ được nhiều bộ môn văn hóa đặc thù như: hát bội, bài chòi, võ thuật và Nhạc võ Tây Sơn. Trong phạm vi bài này, người viết xin lạm bàn đến môn Nhạc Võ Tây Sơn.
    TỪ VĂN MINH TRỐNG ÐỒNG
    Bộ môn văn hóa này, theo dân thoại Bình Ðịnh gọi là "Nhạc Võ Tây Sơn" và theo nhạc pháp gọi là "Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ". Ai cũng biết, sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa cổ xưa của người Việt nổi bật hơn cả là việc dùng trống. Những cuộc khai quật đã đem đến cho các nhà khảo cổ cái trống đồng mà đặc trưng hơn cả là "trống đồng Ngọc Lũ" là chứng cớ đặc biệt của nền văn minh Việt.
    "Tiếng trống từ xưa đến nay đối với dân tộc Việt Nam vẫn là hiệu lệnh để thi hành công việc tập đoàn, để báo hiệu một công việc có quan hệ chung, trống ra quân, trống ngũ liên, trống thu không, trống cầm canh... thường ở đình làng nào cũng có cái trống lớn để báo hiệu, trước khi là một công việc nghệ thuật từ trống chầu đến cầm chầu cho con hát. Vậy dụng ý của trống đồng là đại biểu uy lực của thủ lãnh quần chúng, ban hành mệnh lệnh để rồi trở nên huy hiệu của mệnh lệnh và trở nên thiêng liêng, cho đến thời quốc gia độc lập mới có đền thờ "Ðồng Cổ" như là quốc giáo (1).
    Vì vậy, ta có thể nói rằng việc chế tạo và sử dụng trống là sở trường của Văn Hoá Việt Nam, và không có chi là lạ khi ta biết rằng trong thời Tây Sơn (1788-1802) sắc thái đặc biệt nọ của văn hóa dân tộc được anh em Nguyễn Nhạc khai thác đến triệt để, thì nghệ thuật chơi trống cũng đưa đến tuyệt đỉnh
    ÐẾN NHẠC VÕ TÂY SƠN
    Nhạc khí căn bản của nhạc võ Tây Sơn là một dàn trống do quân Tây Sơn dùng khi thao diễn quân sĩ tại võ trường, khi xuất quân cho khí thế thêm mạnh mẽ, khi thúc quân lướt tới trận mạc cho mau lẹ, khi cần hành quân tiến thối nhịp nhàng, khi hãm thành cho uy thế thêm mãnh liệt, hoặc là khi khải hoàn mà reo mừng thắng trận.
    Bộ trống đúng theo kinh điển gồm 12 cái, mỗi cái mang tên một con giáp của thập nhị chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn... và khi học nhạc thì tên các con giáp này cũng là tên các cung bậc do tiếng trống phát ra. Ðường kính mỗi trống lớn, nhỏ khác nhau, da bịt trống thì căng chùng, thẳng cũng khác nhau nên tiếng trống cao thấp khác nhau.
    NGHỆ THUẬT ÐÁNH TRỐNG
    Khi đánh trống thì nghệ sĩ dùng roi trống (dùi trống), có khi bỏ cả roi trống mà chỉ dùng những ngón tay, dùng bàn tay, dùng nắm tay, dùng cùi chỏ... nghĩa là dùng đủ cả bộ phận của hai tay. Trường hợp dùng roi trống thì cứ mỗi nhịp điệu cử động của ta là ta có thể nghe được bốn âm thanh phát ra: nơi đầu roi trống (1), kéo sang đuôi roi trống (2), hạ cùi chỏ xuống (3), và bật ngửa nắm tay vào mặt trống (4). Cứ như thế mà hai tay của nghệ sĩ nhảy múa trên 12 cái trống khi lơi lả nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi phấn khởi khoan thai. Chỉ có hai cái tay mà đánh cả một dàn trống 12 cái nên nhạc pháp gọi là "Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ".
    Tuy nhiên, trong trường hợp mà nghệ sĩ vượt khỏi tầm kinh điển đến bậc siêu thặng thì ngoài 12 cái trống đặt ngay trước mặt để cho hai tay sử dụng theo đúng nhạc pháp Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, hãy còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: một cái đặt ngang nơi đầu để đầu ngả ngửa húc vào, hai cái đặt ngay hai bên hông cho hai cùi chỏ thúc vào và còn hai cái nữa thì đặt cho vừa tầm hai gót chân để đá hậu vào, vị chi là 17 cái trống. Nghệ sĩ "chơi" nổi 17 cái trống (ông Tám Ngang) thì không còn nữa, mà trước đây chỉ còn có nghệ sĩ chơi được 12 trống mà thôi. Tuy nhiên, khi nghe xem thì vẫn thấy là siêu việt.
    Trước khi chơi, nghệ sĩ đi một đường quyền, bái tổ rồi mới bắt đầu đánh trống và các bản nhạc lần lượt nổi lên. Nghệ sĩ, điệu bộ hùng dũng, công lực dồn lên nét mặt, trổ ra hai tay dồn dập bên 12 cái trống xem như một nghệ sĩ đang múa đường quyền bên 12 cái trống kiểu lăng ba vi bộ nên mới gọi là nhạc võ. Nghệ sĩ chơi bộ môn này cần phải biết võ thuật và khiếu thẩm âm để sự biệu diễn tăng thêm phần ngoạn mục.
    NGHỆ THUẬT BỊ MAI MỘT
    Những năm trước đây, không nghe ai nhắc đến "Nhạc Võ Tây Sơn" là vì một lẽ dễ hiểu. Thói đời thắng được thì là vua mà thua là giặc. Khi nhà Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Gia Long chiến thắng, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn tru di đến nỗi mộ phần của các Ngài cũng bị quật lên, nghiền xương tán nhỏ làm thuốc súng bắn xuống biển, các tôi trung nhà Tây Sơn đều phải mai danh ẩn tích. Thậm chí đến những cái hay của nhà Tây Sơn cũng phải dấu đi kẻo để lộ cho người khác biết được đi báo thì sẽ bị tù đày. Do đó mà di tích nhà Tây Sơn đều bị phá bỏ hết. Ðồng bào Bình Khê thương nhớ ba Ngài lén lập đền thờ mà bề ngoài cũng phải ngụy trang là miếu thờ thần. Ai có thương nhớ giữ được cái gì hay của Ba Ngài thì để bụng chẳng dám phô trương vì sợ chính quyền nhà Nguyễn mà hay được thì không tránh khỏi hậu quả khốc hại. Nhạc võ Tây Sơn cũng cùng chung cái số phận này.
    Tôi cũng xin phép mở một cái dấu ngoặc tại đây để nêu lên một lý do thứ hai (Thi sĩ Quách Tấn cho biết: Ngày xưa, môn võ thuật Bình Ðịnh chia làm 4 bộ môn: côn, quyền, kiếm, cổ (trống) chứ không phải kích.
    Về môn Cổ thì võ sinh thường treo lủng lẳng ngay hàng, hàng năm, muời cái trống (loại trống chầu hát bội) để tập võ. Võ sinh sẽ đánh, đá vào cá cái trống ấy. Trống bị sức mạnh đánh, đá sẽ văng ra xa và nhờ dây treo thối ngược lại. Lối tập võ bằng trống này, một là để tạo những cú đánh (đấm), đá mạnh, nặng cân hơn; hai là để tập sự nhanh nhẹn chống đỡ, tránh né. Nếu ai không tinh mắt lẹ tay thì chắc chắn sẽ bị trống thối ngược lại đập cho vỡ mặt, gãy xương.
    Lần về sau, dường như con người mỗi ngày một yếu dần nên không còn ai dám tập võ bằng trống nữa mà tập bằng những bao đựng cát hoặc bằng bưởi, bòng... Từ đó, danh từ tập võ bằng trống không còn ai dám nhắc tới vì nhắc tới cũng thêm hổ thẹn với người xưa, dần dà rồi mai một.
    Có người bảo Nhạc Võ Tây Sơn là biến thể của lối tập võ bằng trống này. Ðiều đó không lấy gì làm chắc. Nhưng nếu quả vậy thì nhà Tây Sơn thật là kỳ tài đã khéo khai thác từ bộ môn võ thuật chuyển sang bộ môn âm nhạc, rồi lại dùng âm nhạc mà giáo dục võ thuật, gây không khí hào hứng trong quần chúng, kích động lòng hăng say chiến đấu của các chiến sĩ bằng tiếng trống.
    Ngày nay, tại Kampuchia, người ta cũng dùng trống để tập võ. Trên võ đài Miên mà thiếu tiếng trống thì võ sinh không tài nào biểu diễn được). Xin khép ngoặc lại.
    NHƯNG CÓ NGƯỜI CÒN GIỮ ÐƯỢC CHÂN TRUYỀN
    Nhưng may thay, vận nước đổi dời, khi thực dân bị lật đổ, nhà Nguyễn cũng nhào theo thì chỉ có hai người, một ở Bình Khê (nay là Tây Sơn) và một ở Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, còn giữ được cái chân truyền ấy và xem như quốc bảo. Người ở Bình Khê là ông Tám Ngang, ông là người sử dụng được 17 cái trống, ông đem dạy lại cho ba người: hai đứa con trai ông và một người học trò. Ðứa con trai đầu chết, đứa thứ hai thì năm 1954 ở trong đoàn văn công của ********* tập kết ra Bắc, còn lại người học trò kia là nghệ sĩ Tân Phong (tức Nguyễn Phong). Người ở Tuy Phước tên là ông Bầu Thơm (tức Võ Ðôn) là một ông bầu hát bội và cũng là một nhạc sư về loại nhạc hát bội, ông dạy lại một người học trò đó là nghệ sĩ Mười Thông (tức Hoàng Thông) là một nghệ sĩ hát bội và một roi trống hát bội có hạng.
    Hai ông thầy vì tuổi già đã qui tiên còn lại hai người học trò trên kia, tuy không phải bậc siêu đẳng đánh nổi 17 trống, song cũng học được đúng truyền thống của nhạc pháp "Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ". Trước năm 1975, ở Phù cát có anh Nguyễn Việt cũng tập đánh được 12 trống và ở Bình Khê có hai em bé gái (một em 7 tuồi, và một em 12 tuổi) do đoàn Ca Võ Nhạc Tây Sơn đào tạo cũng tập đánh được 5 trống (ngũ âm) xem rất ngộ.
    Riêng Tân Phong, anh là một nghệ sĩ chơi thạo các môn như vẽ vời, ca hát, đờn địch, đắp tượng, chạm trổ, điêu khắc, viết tuồng, đóng kịch... Cái gì anh cũng thảy làm được. Nghe đâu anh cũng đã thất lộc cách đây vài năm. Xin thắp cho anh một nén hương lòng thương tiếc một người bạn tài hoa.
    GIÓNG TRỐNG KHẮP NƠI
    Trước năm 1975, anh Tân Phong vì mang nặng một tinh thần dân tộc nên anh sẵn sàng muốn truyền lại cho đoàn hậu bối cái quốc túy của văn hóa dân tộc, anh cũng đã thuận lời mời đi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn này nhiều nơi. Tôi còn nhớ:
    Ngày 8-11-1967, Hội Văn Hoá Bình Dân Sài Gòn mời anh trình diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sải Gòn nhân có buổi lễ của cơ quan UNESCO tổ chức tại trường này.
    Ngày 11 và 12-1-1968, trình diễn tại rạp Thống Nhất Sài Gòn và sân Tinh Võ Chợ Lớn do ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn Bình Khê tổ chức dưới sự giúp đỡ của Hội Ðức Trí Thể Dục SAMIPIC (Société pour l''Amélioration Moral Intellectuelle et Physique des Indochinois de Cochinchine) và đoàn thể Vovinam.
    Ngày 16-8-1969, trình diễn tại Trung Tâm Văn Hoá Bình Ðịnh tại Qui Nhơn nhân ngày khánh thành Trung Tâm này có sự chứng kiến của ông Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền, đặc trách Văn Hoá, ông Ðại sứ Ðại Hàn Dân Quốc và rất đông quan khách Việt Hàn Mỹ tham dự.
    Ngày 15-3-1970, được phái đoàn điện ảnh Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thu hình và đã trình chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam vào đêm 25-4-1970 tại Sài Gòn và tại Cần Thơ, Qui Nhơn, Huế vào các đêm kế tiếp.
    Ngày 18-6-1970, được phái đoàn Ðiện ảnh Bộ Thông Tin thu hình làm phim tài liệu và sẽ trình chiếu trên các màn ảnh ciné và truyền hình.
    Nghe đâu, sau năm 1975, hai em bé ở Bình Khê mà đoàn Ca Nhạc Võ Tây Sơn đào tạo năm nào nay cũng đã mang trống Tây Sơn đi đánh xứ người, được nhân dân nhiều nước tán thưởng.
    Ngoài ra, hàng năm vào ngày mồng 5 Tết tại điện Tây Sơn Bình Khê, tiếng trống kích cảm của môn Nhạc võ Tây Sơn đã vang lên mở đầu cho chương trình tế lễ vua Quang Trung và lễ hội Tết đống Ða, kỷ niệm trận chiến thắng quân Thanh oanh liệt nhất trong lịch sử của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1979.
    Ai có dự xem trên phim ảnh các lối đánh trống ở nước ngoài đều phải công nhận rằng nghệ thuật đánh trống của Tây Sơn thật là kỳ ảo.
    Trước năm 1975, ban Phổ biến Nhạc Võ Tây Sơn lại còn biểu diễn phối hợp giữa Nhạc võ Tây Sơn và Võ thuật Bình Ðịnh bằng cách khi nhạc võ nổi lên thì các võ sinh nam nữ ở bên ngoài đi những đường quyền, những đường côn, siêu, đao... múa, đá, tọa, nhảy nhịp nhàng theo tiếng trống và đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa xem chẳng khác chi những corps de ballet của Tây phương.
  5. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    BÀI BẢN NHẠC VÕ
    Vì mang danh là nhạc võ nên bài bản phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn.
    Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền thống và xem cho đẹp mắt thì trước hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao, kiếm, côn...) rồi đến giàn Nhạc Võ đặt trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là bốn nhạc công: đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.
    Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi:
    Ngoài biên thùy quân thù xâm lấn
    Trong nội tình đất nước lâm nguy
    Phận làm trai sinh tử nẹ chi
    Quyết một dạ lên đường cứu quốc!
    Nhạc trưởng tiếp theo
    Anh em ơi!
    (Toàn thể nhạc công) "Dạ"
    Lệnh trên đà ban xuống
    Phận dưới phải thi hành
    Dùng kế mưu kích cổ đa thanh
    Ðịch lầm tưởng hùng binh vạn đội
    Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.
    1.- Bài Khai Trường
    Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng.Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu nhạc đó là ba hồi trống khai trường. Nhưng mà nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là "trống âm" và "trống dương" hay "trống quân" và "trống chiến". Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay là do cụ Ðào Tấn ở Bình Ðịnh lập thành qui chế, thì phép đánh trống của hát bội cũng đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn.
    Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba sách, mỗi sách tám phách. Khi đánh đúng 24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống chiến phải thét theo. Khi thét xong, nghĩa là khai trường xong thì nhạc sĩ mở trống ra cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát thứ gì, nam, khách hay xuân... thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã "thủ" và "vĩ". Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái.
    Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ bài nhịp một đến nhịp tám còn âm thanh hay hoặc dở tùy theo người nhạc sĩ bắt già hay non mà thôi.
    2.- Bài Xuất Quân
    Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành thì điệu nhạc phải làm sao cho tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây cho được trong lòng mọi người một niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi.
    3.- Bài Hành Quân
    Ta tưởng tượng một đạo quân hùng hậu đã xuất quân trong tình thần tối cao nhưng mà sau một khúc đường dài chắc hẳn cũng đã thấy mệt mỏi. Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu dàng, có vẻ vui vẻ, có vẻ đùa cợt ... thay vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.
    Ðọc truyện Tàu, chúng ta còn nhớ lúc Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. Còn trong dã sử của Tây Sơn, người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ phải hai người võng một người thì tránh sao khỏi cái việc khiêng liên tiếp mười mấy ngày, quân Tây Sơn cũng có thể mệt mỏi, và huyền thoại truyền rằng vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể chuyện tiếu lâm để cho quân sĩ hào hứng quên sự mệt mỏi và, chúng tôi cũng tin rằng không biết chừng dàn trống của Nhạc Võ Tây Sơn lúc ấy lại trổi khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia.
    Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ chỉ đánh thuần bằng tay không, bằng những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt.
    4,- Bài Hãm Thành
    Bây giờ chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây Sơn đã đến dưới chân thành và vị tướng chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử dụng giàn trống là phải gây cho chiến sĩ một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho mau lẹ. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người.
    5.- Bài Khải Hoàn
    Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của kẻ chiến thắng.
    Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ điều đó. Tôi nói nghe và xem vì Nhạc Võ Tây Sơn xem đã đẹp mắt mà nghe cũng vui tai. Ðiệu bộ và âm thanh hòa nhịp khi khoan, khi nhặt, khi bổng, khi trầm, khi lơi lả, lúc dồn dập thật là khó tả.
    TÂM TÌNH NGƯỜI VIẾT
    Người viết bài này hân hạnh trước đây đã có mặt trong tất cả các buổi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn, nhưng không có lần nào mãn nguyện. Bởi lẽ, theo người viết, bộ môn văn hóa này cần phải được chấn hưng và trình diễn theo đúng truyền thống. Thế nhưng từ trước đến giờ, về mặt chính quyền thì ít để ý đến, mặc dù trên thực tế đã công nhận nó là hay và siêu việt nhưng không đật thành kế hoạch để chấn hưng. Còn nghệ sĩ thì vì thiếu sự để ý, đề cao của chính quyền, nên mặc cảm bị bỏ rơi, phần thì bận rộn sinh kế làm ăn nên cũng không công đâu tập luyện. Cho nên trong tất cả những lần trình diễn, người nghệ sĩ đều ở trong tình trạng bị "bắt cóc", chẳng khác nào bắc nước sôi rồi mới đuổi gà nên không tránh khỏi sự lụp chụp vì thiếu chuẩn bị, thiếu tập dợt; nghệ sĩ nhớ được ngón nào học được của ngày trước thì trổ ra ngón ấy chứ không có thì giờ xét duyệt lại, tập tành thêm cho hay, cho hoàn mỹ và thường chỉ trình diễn thuần việc đánh trống, thiếu phần phụ họa.
    Người viết xin mạn phép ước mơ mà đề nghị với nhà hữu trách Việt Nam sau này, nặng tình với Văn Hoá Dân Tộc, nếu xét thấy bộ môn Nhạc Võ Tây Sơn là một quốc túy và có một giá trị lịch sử huy hoàng thì cần phải đật kế hoạch cụ thể để bảo tồn và phát huy. Tìm kiếm những nghệ sĩ nào còn giữ được chân truyền bộ môn này, truyền lại cho đoàn hậu tấn.
    Ngày xưa, "Người Việt đã nghe tiếng gọi của Trưng Trắc, Trưng Nhị mà chống lại Tô Ðịnh muốn lấy luật pháp mà trói buộc; đã mười năm gian khổ theo Lê Lợi để khỏi phải bím tóc và kết đuôi sam giống người Minh; đã cùng Nguyễn Huệ đánh trống tiến quân vào Thăng Long để đuổi đám tướng binh nhà Thanh nhiễu loạn cuộc sống của dân chúng. Và chắc chắn mãi mãi về sau này, dân tộc Việt Nam còn thì văn hóa dân tộc Việt Nam cũng vẫn có, và vẫn còn cái tinh thần bất khuất để bảo vệ nền văn hóa của dân tộc" (2). Bởi vì tiếng trống Lạc Việt luôn luôn mang nặng tình tự dân tộc và văn hóa Việt Nam không bao giờ thiếu vắng tiếng trống đặc trưng đó.
    THÁI TẨU
  6. TroiOiBoToiRa

    TroiOiBoToiRa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/04/2004
    Bài viết:
    219
    Đã được thích:
    0
    võ tây sơn được ngwời bình định sưu tầm nhiều lắm cơ mà, được sở văn hoá thể dục thể thao đứng hậu thuẫn sau lưng để sưu tầm và phát triển cơ mà vậy mà hoá ra chỉ có ngần này thôi sao thế mà cũng nổi tiếng được mới lạ
  7. shogatsu

    shogatsu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    09/10/2010
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    HỒ HỮU TƯỜNG - Người khai sinh ra khái niệm "Võ Tây Sơn" (!?)

    Chúng ta đều biết võ thuật Tây sơn là một phần của võ thuật Bình Định và dòng võ ta của Đàng Trong. Từ lâu lắm rồi khi mới nhập môn bên SLC chúng tôi được nghe rằng võ thuật Bình Định được phân chia đẳng cấp theo tên 4 bài quyền chính của từng giai đoạn:
    - Yến phi.
    - Thần đồng.
    - Lão mai.
    - Ngọc trản.
    Nhưng chúng tôi không biết được nguồn gốc từ đâu. Ai đưa ra quan điểm này đầu tiên. Sau này thảo luận trên diễn đàn với anh MSGvovit, chúng tôi mới biết được người khởi xướng cho các quan điểm này chính là Hồ Hữu Tường. Ông vốn là một chính trị gia, một lý thuyết gia của nhóm cộng sản đệ tứ (tờ-rốt kít).

    http://ttvnol.com/vothuat/p-6517222?highlight=Hồ hữu tường MSGVOVIT#post6515687

    Notes: Bực bội! Chữ cộng sản cũng không được viết.
  8. shogatsu

    shogatsu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    09/10/2010
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    • NHÌN LẠI VÀI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VÕ TÂY SƠN
    Đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu về những chiến công của nhà quân sự thiên tài Quang Trung Nguyễn Huệ trong công cuộc thống nhất đất nước, đánh tan 3 tập đoàn phong kiến, phá tan 2 đạo quân xâm lược. Đã có những cuộc hội thảo cấp quốc gia tập trung đông đảo các nhà khoa học có uy tín trong cả nước và có những kết luận đánh giá rất cao về khoa học quân sự ở những trận đánh nổi tiếng: Ngọc Hồi - Đống Đa, Rạch Gầm - Xoài Mút…

    Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu về võ nghệ Tây Sơn, tìm hiểu cách sử dụng vũ khí hay phương pháp tập luyện của nhà Tây Sơn, hiện nay chúng ta còn có những lúng túng.

    Theo tư liệu chúng tôi có được, võ Tây Sơn được nói đến sớm nhất ở dạng văn bản là từ ông Hồ Hữu Tường, đăng trên tạp chí Phương Đông từ số 01 đến số 06, năm 1972. Tác giả, với các đề mục võ Tây Sơn đã xây dựng một hệ thống tập luyện từ thấp đến cao gồm 4 bài thảo bộ cho 4 cấp. Đó là các bài: YẾN PHI, THẦN ĐÔNG, LÃO MAI và NGỌC TRẢN. Ông là một nhà chính trị sống ở miền Nam trước 1975. Theo chúng tôi ý định của ông ta, xây dựng võ phái Tây Sơn theo yêu cầu chính trị hơn là theo yêu cầu chuyên môn.

    Sau ngày giải phóng có khá nhiều sách báo nói về võ Tây Sơn – Bình Định, nhưng nổi bật nhất là 3 tập sách “Miền đất võ” I, II, III của một nhóm tác giả do ông Lê Thì chủ biên. Đây là một công trình nghiên cứu có một số đóng góp đáng trân trọng. Tuy nhiên cũng có những vấn đề chưa được thấu đáo, thiếu căn cứ khoa học, làm cho một số người am hiểu cũng như các thầy võ trong tỉnh có phản ứng và bất bình. Ví như, “Miền đất võ” tập 3 cho rằng “Tam thâu tùy hành pháp” là bài thảo roi của Cụ H Ngạnh nhưng không lý giải được và thật ra bài này không rõ hoặc chưa rõ xuất xứ.

    Ngoài ra còn có những thầy võ vốn sinh ra và lớn lên, tập luyện trên vùng đất võ nhưng họ xáo xào rồi tự nhận môn phái này, môn phái nọ để rồi những trang viết của họ chẳng đem lại giá trị đích thực cho những yêu cầu bức thiết mà dân làng võ mong muốn.
    http://www.thuvienbinhdinh.com/diachi/uniisis.asp?action=view&PID=1657
  9. shogatsu

    shogatsu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    09/10/2010
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    Tuy nhiên, cũng có ý kiến không đồng ý quan điểm cho rằng trống trận Tây Sơn là một bộ môn Võ thuật.

    http://muivi.com/muivi/hoc-an-noi-/index.php?option=com_content&task=view&id=7836&Itemid=0

    Trước đây tại miền Nam, ông tác giả Phi Lạc sang Tàu là nhà văn Hồ Hữu Tường cho rằng chính vua Quang Trung là người “sáng chế” ra nhạc võ Tây Sơn, đại khái đó là kiểu đánh trống cùng một lúc của mười mấy chiếc, nhằm tạo ra âm thanh dữ dội đốc thúc ba quân xông trận. Thế nhưng nhà văn Nguyễn Văn Xuân không đồng ý. Trên báo Bách Khoa (số 277 ra ngày 15.7.1968) ông phân tích đó chỉ là kiểu đánh trống Diễu hay trống ông Ninh ông Xá quen thuộc trên sân khấu mà thôi, không riêng gì ở Bình Định mới có và cũng chẳng liên quan gì đến vua Quang Trung cả. Lập luận của ông Xuân đã khiến một người Bình Định cũng “xiêu lòng” là nhà văn Võ Phiến. Ông nhà văn này bùi ngùi bảo: “Nếu quả Bình Định mất đi một điệu trống, phải được đền một cái gì chứ . Chiếc bánh tráng nhé ?” (Xem Đất nước quê hương - Lửa Thiêng XB năm 1973). Tưởng đòi cái gì, chứ đòi chiếc bánh tráng thì thông minh quá đi thôi.
  10. shogatsu

    shogatsu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    09/10/2010
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    http://www.hocxa.com/VanHoc/HoHuuTuong/HoHuuTuong_VeMotKietTac_ThienHy.php

    Đầu thập niên bảy mươi, Hồ Hữu Tường ra tận quận Bình Khê, Qui Nhơn để, với uy tín sẵn có của ông, mời toàn ban "Nhạc Võ Tầy Sơn" vào trình diễn tại Sài Gòn. Buổi trình diễn "Nhạc Võ Tây Sơn" được trình chiếu lại trên đài truyền hình Việt Nam để tất cả khán giả Việt Nam thưởng thức. Để thực hiện công trình văn hóa này dĩ nhiên Hồ Hữu Tường phải tốn khá nhiều thì giờ, khá nhiều công của. Ban "Nhạc Võ Tây Sơn" gồm từ mười lăm đến hai mươi tay trống, mặc quần áo võ thuật, đứng theo đội hình phức tạp, mỗi người đứng sau chiếc trống với chiếc dùi nhỏ . Trống có nhiều cỡ lớn nhỏ khác nhau. Ngoài trống ra không có một nhạc cụ nào khác. Tất cả tiếng trống nổi lên tạo thành một hòa tấu khúc. Người đánh trống vừa đánh vừa ra một ít điệu bộ giống như múa nhưng nghiêng về võ. Bản nhạc được trình diễn thuộc loại "tiếng trống thúc quân." Đó là tiếng trống lệnh: khi nghe điệu trống này đoàn quân tiến về phía trái, khi nghe điệu trống kia đoàn quân tiến về phía phải, khí nghe điệu trống khác tiến lên hoặc dừng lại. Tôi không thể nào dùng văn tự để diễn tả chu đáo nhạc, càng không thế nào diễn tả rõ ràng võ trong "Nhạc Võ Tây Sơn." Nếu tôi cố gắng e rằng tôi làm hư mất thực chất của Nhạc Võ Tây Sơn. Sau bản nhạc "trống thúc quân" một anh chàng ra sân khấu biểu diễn quyền Tây Sơn, sau đó một cô gái múa roi Bình Định theo điệu trống. Ngày nay chúng ta thưởng thức Nhạc Võ tây Sơn trên sân khấu, nhưng vào thời Hoàng đế Quang Trung, mỗi người đều phải học Nhạc Võ Tây Sơn để khi lâm trận biết nghe theo trống lệnh.

    Đầu thập niên 1990 trong kỳ Đại Hội Văn Hóa Quốc Tế tổ chức tại Houston, Texas (14) ban tổ chức đã mời được ban nhạc Võ Nhựt Bổn trình diễn. Những tay trống trong ban nhạc gồm toàn những cô gái trẻ măng mặc đồng phục tuyệt đẹp cũng đứng thành đội hình phức tạp, cũng mỗi ngươi sử dụng một trống lớn nhỏ khác nhau, cũng vừa đánh trống vừa ra ít điệu bộ như vũ nhưng nghiêng về võ, nội dung bản nhạc cũng như "trống thúc quân." Thi sĩ Huy Lực và tôi lấy làm ngạc nhiên vì Nhạc võ Nhựt Bổn tương tự như Nhạc Võ Tây Sơn. Tôi giả thuyết rằng khi xâm lược Việt Nam trong đệ nhị thế chiến, người Nhựt đã học lấy Nhạc Võ ấy rồi đem về Nhựt thành lập ban Nhạc Võ Nhựt lưu truyền cho đến ngày nay. Tôi lặp lại trên đây chỉ là giả thuyết. Nếu giả thuyết ấy đúng chúng ta ghi thêm điểm son cho nền văn hóa Việt Nam, nếu giả thuyết ấy sai độc giả cứ xem như những lời bâng quơ của thằng mõ làng Cổ Nhuế!
    Chẳng những giả sử vào thế kỷ XX Nhạc Võ Tây Sơn được truyền vào nước Nhựt mà thuở xa xưa cách nay một ngàn hai trăm năm nhạc vũ được truyền vào nước Nhựt do Thiền sư Phật Triệt.Thiền sư Thích Mãn Giác viết: "Theo học giả Hajime Nakamura, Vũ Nhạc Triều Đình Nhựt Bổn (tên Nhựt là Bungaku hoặc Gagaku) đã được du nhập vào Nhựt Bổn cách đây một ngàn hai trăm năm do một Thiền sư Việt Nam, tên là Phật Triệt. Đó thực là một kỳ quan của nhân loại (one of wonders of the world). Người Nhựt đã hãnh diện chí lý về nghệ thuật này mà họ đã gìn giữ được qua bao nhiêu thế kỷ (cf. Hajime Nakamura, Contribution of Eastern Thought and Buddhism to world culture, Vạn Hạnh Bulletin, Vol. V, Number 2, June, 1973, trang 157). Theo học giả Nhựt Kyòshò Hayashima thì Thiền sư Phật Triệt đã dạy nhạc Việt Nam ở Học Nnạc Viện Hoàng Gia Nhựt, vũ nhạc tên là Rinyùhachiraku, và Thiền sư Phật Triệt dạy chữ Phạn cho Tăng sĩ Nhựt" (cf. Encyclopedia of Buddhism, Vol. III, 1992). (Thiền sư Thích Mãn Giác, Kinh Pháp Bảo Đàn, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam xuất bản, 1990, trang 98).

Chia sẻ trang này