1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

The Fall of Berlin 1945-Antony Beevor

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vacbay03, 20/06/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Chào các bạn,

    Tôi vốn không phải là dịch giả, chỉ là đam mê lịch sử chiến tranh, nên cũng dịch thử cuốn này của Antony Beevor sau khi xem cuốn Stalingrad của cùng tác giả ở trên này. Nếu có gì sai sót, đặc biệt về các thuật ngữ quân sự, mong được các bạn sửa giúp. Thanks

    Và bây giờ....Nó đây


    BERLIN SỤP ĐỔ 1945



    Sự trả thù tàn bạo của Hồng quân cho những tội ác khủng khiếp do quân Đức và SS gây ra, cuối cùng đã diễn ra khi họ tiến đến biên giới của đế chế Phổ vào tháng Giêng năm 1945. Xe tăng Hồng quân nghiền nát những dòng người tị nạn dưới xích sắt, cưỡng hiếp hàng loạt, cướp bóc và tàn phá, hàng trăm ngàn phụ nữ và trẻ em bị lạnh cóng cho đến chết hoặc bị tàn sát bởi vì chính quyền Đức Quốc xã, từ chối đối mặt với thất bại, đã cấm di tản thường dân.

    Hơn bảy triệu người bỏ chạy về phía tây cố thoát khỏi sự khủng bố của Hồng quân, Đó là sự khủng khiếp nhất được biết đến trong máu lửa chiến tranh

    Trong hoàn cảnh không lối thoát, các cá nhân phải đối mặt với một số phận không do mình quyết định, một số đối diện với nỗi kinh hoàng, những người khác được cứu thoát trong những trường hợp đặc biệt. Binh sĩ Liên Xô thể hiện hai cách đối xử khác nhau, bao dung cũng như sự tàn bạo đối với phụ nữ Đức và trẻ em. Quân đội Đức quốc xã sử dụng những đứa bé mới chỉ mười bốn tuổi đi xe đạp tấn công tự sát chống lại xe tăng của Liên Xô. Khi Hồng quân bao vây Berlin, đội SS tuần tra thành phố, bắn hoặc treo cổ bất kỳ người lính nào không ở trong vị trí của mình

    Việc nhiều sinh mạng người dân Đức đã bị định đoạt bởi sự hỗn loạn của các giá trị đạo đức này là kết quả của một cuộc xung đột lớn giữa những cái tôi bạo ngược chuyên chế nhất của thế kỷ XX, Hitler, nửa điên nửa tỉnh trong căn hầm của ông ta, ban hành những mệnh lệnh quái dị và hoang tưởng, mang lại sự sụp đổ bi thảm của thủ đô đế chế Phổ. Stalin, trong khi đó, đã sẵn sàng để chiếm lấy Berlin trước người Mỹ bất chấp mọi tổn thất. Các tài liệu lưu trữ mới từ Nga công bố lần đầu tiên cho thấy các nhà lãnh đạo Liên Xô đã có một động lực đặc biệt mạnh mẽ


    Antony Beevor, sử dụng tư liệu từ nguồn tài liệu lưu trữ của Liên Xô cũ, cũng như từ Đức, Mỹ, Anh, Pháp và Thụy Điển, đã tái hiện lại sự thảm khốc của hàng triệu người bị cuốn vào cơn ác mộng của sự sụp đổ sau cùng của đế chế thứ 3. Sự sụp đổ của Berlin năm 1945 là một câu chuyện khủng khiếp về niềm tự hào, ngu dốt, cuồng tín, trả thù và man rợ, nhưng nó còn là câu chuyện về sự chịu đựng đáng kinh ngạc, đức hy sinh và bản năng sinh tồn bất chấp mọi sự khắc nghiệt
    --- Gộp bài viết: 20/06/2015, Bài cũ từ: 20/06/2015 ---
    MỤC LỤC

    BẢN ĐỒ

    TỰ ĐIỂN

    Lời nói đầu

    1. Berlin trong năm mới

    2 Ngôi nhà bằng quân bài trên bờ sông Vistula

    3 Sắt và máu và cơn thịnh nộ thần thánh (Noble Fury)

    4 Cuộc tấn công lớn mùa đông

    5 Đột kích đến sông Oder

    6 Đông và Tây

    7 Làm sạch các khu vực hậu tuyến

    8 Pomerania và các đầu cầu Oder

    9 Mục tiêu Berlin

    10 Nhóm cận thần và Bộ Tổng tham mưu

    11 Chuẩn bị đòn kết liễu

    12 Chờ đợi cuộc tấn công

    13 Lính Mỹ trên sông Elbe

    14 Đêm trước trận chiến

    15 Zhukov trên mỏm núi Reitwein

    16 Cao điểm Seelow và Spree

    17 Sinh nhật cuối cùng của Quốc Trưởng

    18 chuyến bay của gà lôi vàng

    19 Thành phố bị oanh kích

    20 Hy vọng hão huyền

    21 Chiến đấu trong thành phố

    22 Chiến đấu trong rừng

    23 Sự phản bội của the Will

    24 Fuhrerdkmmerung

    25 Phủ Thủ Tướng và toà nhà Quốc Hội

    26 Kết thúc cuộc chiến

    27 hae hictis!

    28 Người đàn ông trên lưng ngựa trắng
    huytop, usadok, hk1113337 người khác thích bài này.
  2. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Xin lỗi các bác vì tôi không biết cách post hình ảnh và bản đồ nên tôi post nội dung trước vậy

    TỰ ĐIỂN


    Thời gian được đưa ra trong cuốn sách đề cập đến năm 1945 trừ khi có quy định khác.
    BDM Bund Deutscher madel: Liên đoàn nữ thanh niên Đức, tương đương với nữ thanh niên Hitler
    Fritz: tên người Nga gọi một người lính Đức. Số nhiều được sử dụng cho người Đức nói chung.
    Frontovik: Binh sĩ Hồng quân với kinh nghiệm chiến trường.
    Ivan (hoặc Iwan trong tiếng Đức): một người lính Liên Xô bình thường. Thuật ngữ được sử dụng bởi Hồng quân cũng như quân đội Đức.
    Kessel: (tiếng Đức `một cái vạc ') một lực lượng bị kẻ thù bao vây
    Landser: một người lính Đức với kinh nghiệm chiến trường. Từ tương đương của Hồng quân là frontovik.
    NKVD: cảnh sát mật của Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Lavrenty Beria.
    Đơn vị vũ trang NKVD – Chủ yếu là những sư đoàn súng trường của NKVD
    Trung đoàn biên phòng- trực thuộc các bộ tư lệnh Phương diện quân Xô Viết. Chỉ huy NKVD tại các phương diện quân chỉ báo cáo với Beria và Stalin, không theo mệnh lệnh của Hồng Quân.
    OKH: Oberkommando des Heeres, về lý thuyết là tổng hành dinh tối cao của quân đội Đức, nhưng trong các giai đoạn sau của cuộc chiến tranh vai trò quan trọng nhất của nó là chỉ huy các hoạt động của Mặt trận phía Đông.
    OKW: Oberkommando der Wehrmacht, trụ sở chính tối cao của tất cả các lực lượng vũ trang, quân đội, không quân Đức và Hải quân Đức, do Hitler chỉ huy thông qua Thống chế Keitel, Đại Tướng Jodl. Nó chỉ đạo các hoạt động trên tất cả các mặt trận, ngoại trừ mặt trận phía Đông.
    Bộ phận chính trị: một chính trị viên (politruk) chịu trách nhiệm giáo dục chính trị cho tất cả các binh sĩ. Bộ phận chính trị của mỗi tập đoàn quân và phương diện quân Xô Viết trực thuộc Tổng cục chính trị của Hồng quân (G1avPURRKA).
    S-Bahn: Thành phố và đường sắt ngoại ô, chủ yếu là trên mặt đất, nhưng một số nằm dưới lòng đất.
    Phòng 7: Một phòng của sở chỉ huy tập đoàn quân Xô Viết. Nhiệm vụ chính là để làm mất tinh thần đối phương. Những người Cộng sản Đức làm việc dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Liên Xô, cũng có nhiều tù binh Đức đã trải qua đào tạo về "chống phát xít" trong các trại giam của Liên Xô. Họ được quân Đức được biết đến như `quân Seydlitz 'sau khi tướng Von Seydlitz Kurzbach, người đã đầu hàng ở Stalingrad và thành lập cái gọi là Ủy ban Quốc gia vì một nước Đức tự do, hoàn toàn dưới sự kiểm soát của NKVD.
    SHAEF: Trụ sở tối cao của quân viễn chinh Đồng minh châu Âu.
    Shtraf : Đại đội hoặc tiểu đoàn trừng giới Liên Xô, mô phỏng theo những đơn vị trừng giới Đức. Sĩ quan bị cách chức, đào ngũ, vi phạm kỷ luật bị kết án đưa vào các đơn vị trừng giới, nơi họ về lý thuyết, được tạo cơ hội để chuộc lại tội lỗi với máu của họ. Điều này có nghĩa rằng họ được sử dụng cho các nhiệm vụ gần như tự sát, chẳng hạn như những người đầu tiên xung phong qua một bãi mìn. Strafunits luôn luôn có một người giám sát sẵn sàng bắn bất kỳ thành viên không tuân theo mệnh lệnh.
    SMERSH: viết tắt của smert shpionam (cái chết của bọn gián điệp), cái tên được cho rằng do Stalin đặt ra cho cơ quan phản gián trong các đơn vị Hồng quân. Cho đến tháng tư năm 1943, khi Viktor Abakumov trở thành lãnh đạo Smersh, nó đã được biết đến như là `Bộ phận đặc biệt" của NKVD.
    Stavka: Trụ sở tối cao của Liên Xô của các lực lượng vũ trang, trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Stalin. Chánh văn phòng năm 1945 là Tổng Tham Mưu Trưởng Antonov.
    U-Bahn: tàu điện ngầm.
    Verkhovny: Tổng tư lệnh, thuật ngữ mà Zhukov và các chỉ huy cao cấp khác sử dụng để gọi Stalin.

    CÁC ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI

    Cụm tập đoàn quân và phương diện quân: Một cụm tập đoàn quân Đức hay một phương diện quân Hồng quân gồm nhiều tập đoàn quân dưới sự chỉ huy của một Tư lệnh. Tùy theo tình hình, sức mạnh của nó có thể rất khác nhau dao động từ 250.000 đến hơn một triệu người.
    Tập đoàn quân: Mỗi tập đoàn quân Đức, thường dao động về quân số giữa 40.000 đến hơn 100,000 người, tên của nó được viết đầy đủ trong các văn bản ví dụ Tập đoàn quân 9, hoặc Tập đoàn quân Panzer số 3. Tập đoàn quân Liên Xô, thường được biên chế ít hơn, được viết như sau: Tập đoàn quân 47 hoặc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2. Hầu hết các tập đoàn quân thường bao gồm hai hoặc ba quân đoàn. Một Tập đoàn quân xe tăng Liên Xô có trong lý thuyết 620 xe tăng và 188 khẩu pháo tự hành.
    Quân đoàn: Một quân đoàn bao gồm một số sư đoàn, thường từ hai tới bốn sư đoàn. Một quân đoàn xe tăng Liên Xô, tuy nhiên, bao gồm ba lữ đoàn xe tăng với 65 xe tăng mỗi lữ đoàn. Một quân đoàn xe tăng Xô Viết chỉ tương đương với một sư đoàn xe tăng Đức biên chế đầy đủ
    Sư đoàn: Quân số của mỗi sư đoàn rất khác nhau. Một sư đoàn súng trường của Liên Xô trong lý thuyết có 11.780 người, nhưng phần lớn dao động giữa 3.000 và 7.000 người. Sư đoàn bộ binh Đức thường thậm chí còn lâu mới đạt được đầy đủ sức mạnh của nó trong năm 1945.
    Lữ đoàn: Giữa một trung đoàn và một sư đoàn, được sử dụng phổ biến trong quân đội Mỹ và Anh hơn quân đội Đức và Hồng quân. Cả hai lữ đoàn Hồng quân và Đức đều có ít nhất hai hoặc ba trung đoàn cho tới 1 sư đoàn. Tuy nhiên, Hồng quân Liên Xô biên chế 3 ba lữ đoàn xe tăng cho mỗi quân đoàn xe tăng.
    Trung đoàn: Bao gồm ít nhất hai hoặc ba tiểu đoàn, với khoảng 700 lính mỗi tiểu đoàn, nhưng thường quân số ít hơn nhiều.
    Tiểu đoàn: Mỗi tiểu đoàn gồm ít nhất ba đại đội súng trường với khoảng tám mươi người lính – với các đại đội yểm trợ hoả lực với súng máy, súng cối, súng chống tăng, vận tải và hậu cần
    Cấp bậc quân sự giữa quân đội Anh, quân đội Hoa Kỳ, Quân đội Đức và lực lượng Waffen SS có thể được tìm thấy trên antonybeevor.com trong phần phụ lục của cuốn sách này.
    hk111333, usadok, maseo4 người khác thích bài này.
  3. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    LỜI TỰA

    `Lịch sử luôn luôn nhấn mạnh những sự kiện sau cùng," Albert Speer quan sát một cách cay đắng những người thẩm vấn người Mỹ của ông ngay sau khi kết thúc chiến tranh. Ông ghét cái ý tưởng rằng những thành tựu ban đầu của chế độ Hitler đã bị che khuất bởi sự sụp đổ sau cùng của nó. Tuy nhiên, Speer, như những tên Đức quốc xã nổi tiếng khác, từ chối công nhận rằng có vài điều tiết lộ về các nhà lãnh đạo chính trị và tổ chức của họ hơn cách thức mà họ sụp đổ. Đây là lý do tại sao chủ đề về sự thất bại cuối cùng của quốc gia chủ nghĩa xã hội là rất hấp dẫn, và cũng vì vậy rất quan trọng tại thời điểm khi thanh thiếu niên, đặc biệt là ở Đức, tìm hiểu và ngưỡng mộ Đế chế thứ ba.
    “Kẻ thù của Đức quốc xã" lần đầu tiên đã có thể hình dung thời điểm của họ về việc trả thù chỉ hơn hai năm trước. Tháng 2 năm 1943, một Đại tá Liên Xô tức giận tóm lấy một nhóm các tù nhân Đức trong đống đổ nát của Stalingrad. `Berlin cũng sẽ giống như vậy!’ ông hét lên, chỉ vào các tòa nhà đổ nát xung quanh. Khi tôi đọc những lời này cách đây khoảng sáu năm, tôi cảm nhận được ngay lập tức những gì mà cuốn sách tiếp theo của tôi sẽ mô tả.
    Trong số các bức vẽ được bảo quản trên các bức tường của toà nhà Quốc Hội tại Berlin, người ta có thể nhìn thấy hai thành phố được liên kết bởi sự hân hoan của người Nga trong việc trả thù, buộc những kẻ xâm lược, từ điểm xa nhất của họ về phía đông, rút lui vào trong trái tim của nước Phổ.
    Hitler vẫn bị ám ảnh bởi thất bại của quyết định này. Trong tháng mười một năm 1944, khi Hồng quân tập hợp ngay sát chiến tuyến biên giới phía đông của đế chế Đức, ông lại nói về Stalingrad. Đối với người Đức, sự đảo ngược đã bắt đầu. Ông nói trong một bài phát biểu quan trọng, `với đòn đột kích của quân đội Nga vào tuyến phòng thủ quân đội Rumani trên sông Đông trong tháng 11 năm 1942’. Ông đổ lỗi cho đồng minh bất hạnh của mình, được vũ trang tồi, và bị bỏ mặc ở hai bên sườn dễ bị tổn thương tại Stalingrad, trong khi không nói gì đến việc chính bản thân ông ta đã phớt lờ, không lưu ý đến những cảnh báo nguy hiểm. Hitler đã không học được gì từ thất bại và đã không quên cái gì cả.
    Bài phát biểu tương tự chứng minh một cách khủng khiếp sự méo mó về logic trong đó người dân Đức đã tự cho phép mình trở thành nạn nhân. Khi được công bố, nó đã được giật tít `Đầu hàng đồng nghĩa với sư hủy diệt '. Ông cảnh báo rằng nếu người Bolshevists thắng, nước Đức sẽ đối diện với sự tàn phá, cưỡng hiếp, và nô lệ, với `những dòng người vô tận lê bước đến Siberia giá lạnh”
    Hitler kịch liệt từ chối thừa nhận những hậu quả gây ra do hành động của mình, và người dân Đức nhận ra quá muộn rằng họ bị mắc kẹt bởi một sự nhầm lẫn đáng sợ của luật nhân quả. Thay vì loại bỏ chủ nghĩa Bolshevik như ông đã tuyên bố, Hitler đã mang nó đến tận trung tâm châu Âu. Cuộc xâm lược tàn ác của ông ta vào nước Nga được thực hiện bởi một thế hệ thanh niên Đức bị đầu độc bởi những lời tuyên truyền khôn ngoan và cay độc. Tuyên truyền của Goebbels đã không chỉ đơn giản coi Người Do Thái, chính ủy và toàn thể chủng tộc Slave là không có tính người, nó còn làm cho người Đức sợ và ghét họ. Hitler, với những tội lỗi to lớn, đã kềm kẹp các quốc gia khác trong tay ông ta và tình trạng hành xử bạo lực của Hồng Quân chính là việc thực hiện lời tiên tri của người lãnh đạo của họ (Đức Quốc Xã – ND)
    Stalin, trong khi hài lòng tận dụng các biểu tượng phù hợp với ông ta lại có những tính toán xa hơn. Thủ đô của đế chế Đức đã thực sự là “trung tâm của tất cả các hoạt động của quân ta trong cuộc chiến này”, nhưng ông lại có các mối quan tâm cốt yếu khác. Không kém phần quan trọng trong số đó là kế hoạch của Lavrenty Beria, Bộ trưởng Bộ an ninh quốc gia của Stalin, nhằm tháo dỡ và tước đoạt tất cả các thiết bị và uranium của các cơ sở nghiên cứu hạt nhân tại Berlin trước khi người Mỹ và Anh đến. Công việc của Dự án Manhattan thực hiện ở Los Alamos đã được biết đến trong điện Kremlin, nhờ vào một điệp viên thân Cộng Sản, Tiến sĩ Klaus Fuchs. Khoa học Liên Xô đã bị tụt hậu phía sau, và Stalin và Beria đã bị thuyết phục rằng nếu họ chiếm lấy các phòng thí nghiệm và bắt giữ các nhà khoa học Đức ở Berlin trước khi các đồng minh phương Tây kịp làm điều này, thì họ cũng có thể sản xuất một quả bom nguyên tử như người Mỹ.
    Quy mô của tấn thảm kịch nhân loại vào cuối cuộc chiến vượt ra ngoài trí tưởng tượng của tất cả những người không trải qua cuộc chiến, nhưng đặc biệt là của những người đã trưởng thành trong xã hội phi quân sự thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, tuy nhiên, vào thời điểm này số phận của hàng triệu người vẫn còn nhiều điều để dạy chúng ta. Một bài học quan trọng là người ta phải rất thận trọng đối với sự liên quan sâu rộng về hành vi của các cá nhân. Sự đau khổ cùng cực của con người, và thậm chí suy thoái, có thể mang lại những điều tốt nhất cũng là tồi tệ nhất trong bản chất con người. Hành xử của con người phản ánh một mức độ rộng lớn về sự sống và cái chết không thể tiên đoán trước, nhiều binh sĩ Xô Viết, đặc biệt là những đơn vị tuyến đầu, không giống như những binh sĩ đi sau, thường cư xử với dân thường Đức với lòng tốt tuyệt vời. Trong một thế giới của sự tàn ác và quái dị mà khái niệm về tính người đã gần như bị phá hủy bởi ý thức hệ, chỉ cần một vài hành vi tốt đẹp bất ngờ của lòng trắc ẩn, đức hy sinh, sẽ làm giảm nhẹ đi sự tồi tệ đó, nếu không sẽ là một câu chuyện gần như không thể chịu nổi.
    --- Gộp bài viết: 20/06/2015, Bài cũ từ: 20/06/2015 ---
    Các bác cứ xem trước xem dịch thế có ổn không nhé. Rồi tôi sẽ post tiếp
    hk111333, usadok, Fearless4 người khác thích bài này.
  4. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    NKVD là Dân ủy Nội vụ, bao gồm cả lính biên phòng và công an thường, cũng như cán bộ điều tra tội phạm. Các "Sư đoàn súng trường" của bạn nên dịch là "Sư đoàn bộ binh". Các Sư đoàn NKVD có thể xem như Waffen SS (Vệ binh SS) mặc dù không hẳn như vậy.

    OKH: Tổng hành dinh Lục quân Đức
    OKW: Tổng hành dinh Quân đội Đức
    Tổng cục quản lý An ninh Đế chế - RSHA (Reichsicherheitsdientshauptamt) : cơ quan trực thuộc tổ chức SS, thành lập tháng 9/1939, là sát nhập bao gồm Gestapo (Geheime Staatspolizei - Mật vụ Quốc gia), SD (Sicherheitsdienst - Cơ quan An ninh) và Cảnh sát chống tội phạm (Kriminalpolizei).

    Chính ủy - Komissar: sĩ quan phụ trách chính trị trong các đơn vị Hồng quân. Các komissar xuất hiện trong Hồng quân từ thời kỳ Nội chiến (1918-1922), khi phần lớn chỉ huy của Hồng quân là cựu sĩ quan Quân đội Sa hoàng và được đánh giá là không đáng tin cậy về mặt chính trị. Do đó Chính quyền Xô viết tổ chức hệ thống komissar trong từng đơn vị Hồng quân để làm đại diện của Đảng duy trì kỷ luật quân đội, giáo dục và hướng dẫn tư tưởng chiến sĩ. Thời kỳ đầu Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, các sĩ quan chính trị trong quân đội có ngạch bậc và quân hàm riêng, trực thuộc GLAVPUR (Glavnoie politicheskoie upravlenie) - Tổng cục Chính trị, một tổ chức thuộc Hồng quân, nằm dưới quyền Aleksandr Sherbakov. Ta cần lưu ý phân biệt Tổng cục Chính trị với Cục Tuyên chính cùng thuộc Hồng quân do Lev Mekhlis đứng đầu (Cục Tuyên chính bị hủy bỏ vào tháng 10/42).
    Vào tháng Mười 1942, khi trận đánh phòng thủ Stalingrad đang hồi ác liệt nhất, quân hàm chính trị viên bị huỷ bỏ, các sĩ quan quân đội được tự do và chủ động hơn trong chỉ huy chiến đấu. Các sĩ quan chính trị chuyển sang đeo quân hàm quân đội thông thường và trở thành chỉ huy phó phụ trách chính trị trong đơn vị (zampolit), cùng làm các công tác giống như các chỉ huy trưởng mà họ phối thuộc, quyền hạn của họ cũng giảm bớt.
    Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, các chính trị viên thường là quân nhân Đảng viên, được đào tạo về chuyên môn quân sự giống như các sĩ quan thông thường. Thời kỳ đầu chiến tranh, có một số trường hợp các chính trị viên đưa ra các quyết định sai lầm về mặt quân sự, do có kiến thức quân sự yếu kém. Họ cũng thường xung đột với chỉ huy trưởng và quân nhân trong các đơn vị. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các chính trị viên đã chỉ huy khéo léo như các sĩ quan và tướng lĩnh. Ví dụ như Popel, chính ủy của Quân đoàn Cơ giới số 8 vào tháng Sáu 1941. Sau khi chỉ huy đơn vị chiếm được Dubno, bị quân địch bao vây mà không nhận được lệnh rút lui, ông này đã chọc thủng vòng vây và di chuyển trong hậu phương địch cả tháng trời rồi quay về chiến tuyến Xô viết. Cũng không chỉ có các quân nhân Đảng viên trở thành chính trị viên. Trước chiến tranh, Hồng quân phát triển mạnh về số lượng nên Chính phủ đã tuyển khoảng 20.000 thầy giáo làng vào quân đội để làm chính trị viên. Hầu hết những chính trị viên-thầy giáo này đã chiến đấu và anh dũng hy sinh trong năm 1941… Chức vụ zampolit tồn tại trong Hồng quân tới khi Liên Xô sụp đổ.
    Cần lưu ý thêm trong thời kỳ đầu chiến tranh, Hồng quân không sử dụng lon vai (được xem là tàn dư của chế độ Sa hoàng) mà chỉ thêu các vạch và khối vuông ở ống tay áo để nhận biết. Sĩ quan quân đội thường được gọi là “đồng chí sư đoàn trưởng”, “đồng chí lữ đoàn trưởng” thay vì gọi theo cấp hàm úy, tá, tướng. Lon vai và cách gọi theo cấp hàm quân đội chỉ được sử dụng vào khởi đầu trận Kursk (1943).

    Strafbat: bạn có thể xem thêm tại đây http://ttvnol.com/threads/penalty-s...truong-trung-gioi-hong-quan-1943-1945.456260/

    Verkhovny: Tổng tư lệnh - đây là từ mang tính lịch sử, dùng từ thời Sa hoàng. Sa hoàng cũng là Tổng tư lệnh quân đội.

    Tập đoàn quân Xe tăng hay không quân của Hồng quân có quân số ít hơn nhiều so với Tập đoàn quân bộ binh. 1 Tập đoàn quân bộ binh của Hồng quân có khoảng 20.000 tay lê. 1 Tập đoàn quân Liên Xô ngang với 1 Sư đoàn Đức. 1 Phương diện quân Liên Xô ngang với 1 Tập đoàn quân Đức.

    Cuốn này của Anthony Beevor viết hình như cuối những năm 1980. Beevor sử dụng các hồi ký của những tay Quốc Xã có xuất bản ở phương Tây như Albert Spee. Cuốn The Fall of Berlin in lần sau hình như có bổ sung các tài liệu của Vasily Grossman mà Beevor nghiên cứu kỹ. Kết luận của Beevor rằng khoa học nguyên tử của Liên Xô bị bỏ xa phía sau là hơi "bậy". Hiện thời các sử gia phương Tây mới có các cập nhật mới hơn.
    hk111333, usadok, Fearless2 người khác thích bài này.
  5. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Thanks bác Danngoc,

    Hehe như đã nói, tôi là tay ngang, chỉ thích mà dịch thôi nên có nhiều thiếu sót. Mong bác xem sửa giúp cho. Trong cuốn này Antony Beevor cũng có trích dẫn nhiều tài liệu của Vasily Grossman bác ạ.
    hk111333, tonkin2007danngoc thích bài này.
  6. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Berlin trong năm mới

    Cư dân Berlin, gầy mòn do khẩu phần ít ỏi và căng thẳng, ăn mừng Giáng sinh năm 1944 rất sơ sài. Phần lớn thủ đô đế chế Đức đã bị đổ nát bởi các cuộc không kích, những câu nói đùa ở Berlin đã biến thành sự hài hước rùng rợn, lời châm biếm trong thời kỳ này là `Hãy thực tế đi: cung cấp cho một cái hòm. "
    Tâm trạng ở Đức đã thay đổi chính xác vào hai năm trước, tin đồn đã bắt đầu lan truyền ngay trước Giáng sinh 1942 là tập đoàn quân 6 của tướng Paulus đã bị Hồng quân bao vây trên sông Volga, chế độ Quốc xã khó khăn khi phải thừa nhận rằng một đơn vị lớn nhất của quân đội Đức đã bị tiêu diệt trong đống đổ nát Stalingrad và trong thảo nguyên lạnh giá bên ngoài. Để chuẩn bị cho nước Đức nước trước tin dữ, Joseph Goebbels, Bộ trưởng bộ Thông tin, đã công bố một ` Giáng sinh Đức’, mà khái niệm về chủ nghĩa xã hội quốc gia nghĩa là thắt lưng buộc bụng và kiên định về tư tưởng, không nến và cây thông và hát ‘Heilige Nacht `. Từ năm 1944, món ngỗng quay truyền thống đã trở thành một ký ức xa vời
    Trên đường phố tại những ngôi nhà sụp đổ, những bức tranh vẫn còn được thấy treo trên các bức tường của nơi đã từng là phòng khách hoặc phòng ngủ, Nữ diễn viên Hildegard Knef nhìn chằm chằm vào một cây đàn piano đã bị bỏ lại trên những tàn tích còn lại của sàn nhà. Không ai có thể lấy được nó và cô tự hỏi nó sẽ ở đó trong bao lâu trước khi rơi xuống đống đổ nát phía dưới. Tin nhắn từ gia đình được viết nguệch ngoạc trên các tòa nhà thông báo với đứa con trai trở về từ mặt trận rằng họ đều bình yên và đang ở nơi khác. Đảng Quốc xã cảnh báo `những kẻ cướp bóc sẽ bị trừng phạt bằng cái chết!"

    Sự sụp đổ của Berlin 1945

    Không kích quá thường xuyên, bởi không lực Anh ban đêm và không lực Hoa Kỳ vào ban ngày, đến nỗi cư dân Berlin cảm thấy họ dành nhiều thời gian trong hầm hơn trong giường của mình. Hậu quả của việc thiếu ngủ là sự pha trộn kỳ lạ giữa sự kích động bị kìm nén, và niềm tin vào định mệnh. Rất ít người có vẻ lo lắng về việc bị tố cáo đến Gestapo như là những người có tinh thần chủ bại, như các câu chuyện cười cho thấy. Tên viết tắt phổ biến LSR cho Luftschutzraum, hoặc hầm trú ẩn không kích, được diễn dịch là `Lernt Schnell Russisch ‘Học tiếng Nga nhanh chóng ". Phần đông cư dân Berlin đã bỏ câu "Heil Hitler!" khi chào hỏi. Khi Lothar Loewe, một thành viên Đòan thanh niên Hitler, người đã đi xa khỏi thành phố, sử dụng nó khi bước vào một cửa hàng, tất cả mọi người quay lại và nhìn chằm chằm vào anh ta. Đó là lần cuối cùng anh thốt ra những lời đó khi không làm nhiệm vụ. Loewe thấy rằng lời chào phổ biến nhất đã trở thành `Bleib iibrig! ' `Sống sót"!
    Sự hài hước cũng phản ánh sự kỳ cục, đôi khi siêu thực, hình ảnh về thời gian. Khu vực phòng không lớn nhất ở Berlin là Sở thú , một pháo đài bê tông cốt thép rộng lớn của thời kỳ chuyên chế, với pháo phòng không trên mái nhà và hầm trú ẩn rất lớn ở dưới, mà đám đông cư dân Berlin thường sử dụng khi còi báo động vang lên. Người viết nhật ký Ursula von Kardorff mô tả nó như là `khung cảnh trại tù ở Fidelio”. Trong khi đó, những cặp tình nhân quấn lấy nhau trên cầu thang xoắn ốc bê tông như thể tham gia vào một `Buổi khiêu vũ với phục trang loè loẹt”
    Bầu không khí lan tràn của sự sụp đổ sắp xảy ra trong cuộc sống cá nhân cũng nhiều như trong sự tồn tại của quốc gia. Người ta tiêu tiền một cách thiếu cân nhắc, nửa giả định rằng nó sẽ sớm mất giá trị. Và có những câu chuyện, mặc dù khó có thể xác nhận, các cô gái và phụ nữ trẻ quan hệ với người lạ trong góc tối xung quanh nhà ga Sở thú và trong Tiergarten. Ước muốn thoát khỏi sự trinh trắng được cho là còn thậm chí trở nên mãnh liệt hơn sau khi Hồng quân tiến đến Berlin.
    Bản thân các hầm trú ẩn không kích, được thắp sáng bằng đèn xanh, có thể thực sự đem lại một sự nếm trải ban đầu của địa ngục với nỗi sợ hãi bị giam giữ, như khi người ta bị đẩy vào trong với quần áo ấm nhất của họ, mang theo vali cạc tông nhỏ chứa bánh mì và phích nước. Về lý thuyết, tất cả các nhu cầu cơ bản đều được phục vụ trong các hầm trú ẩn. Có một Sanitlitsraum với y tá, nơi mà phụ nữ có thể làm việc. Trẻ em dường như được sinh ra nhanh hơn do các dư chấn từ các vụ không kích, mà cảm giác như nó đến từ trung tâm của trái đất cũng như từ mặt đất. Trần nhà được sơn bằng sơn phản quang để sử dụng thay cho đèn, mỗi lúc một thường xuyên hơn trong các cuộc không kích khi những ngọn đèn bị hư hỏng, đầu tiên mờ đi sau đó nhấp nháy rồi tắt. Nguồn cung cấp nước bị ngưng trệ khi các ống dẫn nước chính yếu bị hư hại và Aborte, hoặc nhà vệ sinh, nhanh chóng trở thành kinh tởm, một nỗi đau thực sự đối với một quốc gia luôn quan tâm đến vấn đề vệ sinh. Nhà vệ sinh thường được khoá kín bởi người chủ cuả nó bởi vì có nhiều trường hợp những người bị trầm cảm đã vào nhà vệ sinh khóa cửa rồi tự sát.
    Với dân số khoảng 3 triệu người, Berlin không có đủ nơi trú ẩn, vì vậy họ thường quá tải. Trong hành lang chính, sảnh chờ và các phòng ngủ, không khí hôi hám do việc sử dụng quá mức. Khu liên hợp các hầm trú ẩn dưới nhà ga U-Bahn Gesundbrunnen đã được thiết kế để chứa 1500 người, nhưng nó thường xuyên phải tiếp nhận số lượng người nhiều gấp ba lần. Nến được sử dụng để đo mức độ suy giảm oxy. Khi một ngọn nến đặt trên sàn nhà bị tắt, trẻ em được ẵm lên và được đặt lên vai. Khi một ngọn nến trên một chiếc ghế bị tắt, một cuộc sơ tán có mức độ bắt đầu. Và nếu một ngọn nến thứ ba bắt đầu cháy xèo xèo, toàn bộ hầm trú ẩn sẽ được sơ tán
    Người lao động nước ngoài tại Berlin, 300.000 người được nhận diện qua các chữ cái sơn lên quần áo hiển thị quốc gia xuất xứ của họ, bị cấm bước vào hầm ngầm và hầm rượu. Đây làmột phần mở rộng của các chính sách của Đức Quốc xã để ngăn chặn họ hòa nhập mật thiết vào chủng tộc Đức, nhưng mối quan tâm lớn của các cơ quan chức năng là bảo vệ tính mạng người Đức. Người bị cưỡng bức lao động, đặc biệt là một`Ostarbeiter ', hoặc ở phía đông, hầu hết bị bắt đi từ Ukraine và Belarus, được coi là có thể bị tiêu diệt. Tuy nhiên, nhiều lao động nước ngoài, bắt buộc hay tình nguyện, được hưởng mức độ tự do lớn hơn nhiều so với những người bất hạnh bị đưa vào trại tập trung. Ví dụ, những người làm việc trong các nhà máy vũ khí xung quanh thủ đô đã tự tạo ra nơi trú ẩn của mình. Tinh thần của họ đã tăng rõ rệt cùng với đà tiến của Hồng quân, trong khi tinh thần của những người chủ của họ lại suy giảm. Hầu hết người Đức nhìn lao động nước ngoài với sự lo lắng, họ thấy bọn họ như là một “con ngựa thành Trojan “ (đơn vị đồn trú sẵn sàng tấn công và trả thù họ ngay sau khi quân đội của đối phương tiếp cận thành phố)
    Cư dân Berlin bị ám ảnh về một nỗi sợ hãi đối với những kẻ xâm lăng chủng tộc Slav (an atavistic and visceral fear) đến từ phía đông. Sợ hãi dễ dàng chuyển sang thù ghét. Khi Hồng quân tiến đến, bộ máy tuyên truyền Goebbels lặp đi lặp lại về sự tàn bạo tại Nemmersdorf, khi Hồng quân tiến vào một ngôi làng phía đông nam của Đông Phổ mùa thu năm ngoái, hãm hiếp và sát hại người dân của ngôi làng này.
    Một số người có lý do riêng của họ để từ chối xuống hầm trú ẩn khi có không kích. Một người đàn ông đã có gia đình, thường xuyên đi thăm tình nhân của ông ta ở quận Prenzlauerberg, không dám xuống hầm trú ẩn công cộng bởi vì sẽ làm dấy lên những nghi ngờ. Một buổi tối, toà nhà bị trúng bom, và kẻ ngoại tình không may, lúc đó đang ngồi trên một chiếc ghế sofa, bị chôn vùi đến tận cổ trong đống đổ nát. Sau cuộc không kích, một cậu bé tên là Erich Schmidtke và một người lao động Séc, những người hiện diện bất hợp pháp trong hầm đã nghe tiếng la hét đau đớn của ông, và chạy lên lầu về phía phát ra âm thanh. Sau khi ông được đào lên và rời sân bằng cáng để điều trị, Erich mười bốn tuổi sau đó đã phải đi nói với vợ của người đàn ông bị thương rằng chồng của cô đã bị thương nặng trong một căn hộ của người phụ nữ khác. Cô bắt đầu la hét trong sự tức giận. Sự thật là việc ông ta ở với người phụ nữ khác làm cô ta bị kích động còn nhiều hơn so với số phận của ông ta. Trong những thời điểm này, trẻ em đã đối mặt với thực tế khắc nghiệt thô bạo của thế giới người lớn.
    Tướng Giinther Blumentritt, giống như hầu hết những quan chức cao cấp, bị thuyết phục rằng các cuộc không kích vào nước Đức làm dấy lên`Volksgenossenschaft' hay ' tinh thần ái quốc” thật sự. Điều này có thể đúng trong năm 1942 và năm 1943, nhưng vào cuối năm 1944, có xu hướng phân cực
    về tư tưởng giữa phe bảo thủ và những người mệt mỏi vì chiến tranh. Berlin là thành phố với tỷ lệ phản đối chế độ Quốc xã cao nhất, như số phiếu bầu trước năm 1933 cho biết. Nhưng với ngoại lệ của một thiểu số rất nhỏ và can trường, đối lập với Đức quốc xã đã bị giới hạn bởi sự chế nhạo và càu nhàu. Đa số đã thật sự kinh khiếp với nỗ lực ám sát Hitler vào ngày 20 tháng 7 1944 và khi biên giới của đế chế bị đe dọa cả ở phía đông và phía tây, họ như uống từng lời nói dối của Goebbels rằng Quốc trưởng sẽ đưa ra ` vũ khí kỳ diệu" chống lại kẻ thù của họ, như thể ông đảm nhận vai trò của thần Jupiter phẫn nộ dùng sấm sét như một biểu tượng cho quyền lực của mình.
    Một lá thư được viết bởi một người vợ gửi cho chồng đang ở trong một trại tù binh ở Pháp đã cho thấy tâm lý này và sự sẵn sàng tin vào sự tuyên truyền của chế độ. 'Tôi có niềm tin như vậy trong số phận của chúng tôi,"cô viết, rằng “không có gì có thể xoay chuyển niềm tin được sinh ra từ trong lịch sử lâu dài của chúng tôi, từ quá khứ huy hoàng, như Tiến sĩ Goebbels nói. Không thể chấp nhận sự việc xoay chuyển theo chiều hướng khác nhau. Chúng tôi có thể đã đạt đến một điểm rất thấp ở thời điểm này, nhưng chúng tôi có những người đàn ông kiên cường. Cả nước đã sẵn sàng ra trận, vũ khí trong tay. Chúng tôi có những loại vũ khí bí mật sẽ được sử dụng tại thời điểm quyết định này, và trên hết chúng tôi có Quốc Trưởng, người mà tất cả chúng ta đi theo với niềm tin tuyệt đối. Bạn không được cho phép bản thân bị đánh bại với bất kỳ giá nào"
    Chiến dịch phản công Ardennes, xảy ra ngày 16 tháng 12 năm 1944, đã làm say sưa những người trung thành với Hitler vào khả năng xoay chuyển tình thế. Niềm tin đối với Fuhrer và Wundermaffen, các loại vũ khí kỳ diệu như V-a, làm mờ mắt họ với thực tế. Tin đồn lan truyền rằng Tập đoàn quân 1 Hoa Kỳ đã hoàn toàn bị bao vây và bắt làm tù binh do một chất gây mê bằng khí gas. Họ nghĩ rằng họ có thể bắt thế giới trả tiền chuộc và trả thù cho tất cả những gì nước Đức đã phải chịu đựng. Paris sắp được chiếm lại, họ nói với nhau với niềm vui sướng khốc liệt. Nhiều người lấy làm tiếc rằng thủ đô nước Pháp lẽ ra đã không bị tàn phá những năm trước trong khi Berlin bị đánh bom phá huỷ. Họ phấn khích với ý tưởng rằng bây giờ lịch sử có thể được sửa lại
    Chỉ huy cao cấp của quân đội Đức đã không chia sẻ sự nhiệt tình này với cuộc tấn công ở phía tây. Các tướng lãnh lo ngại rằng chiến lược táo bạo của Hitler nhằm vào quân đội Mỹ tại Ardennes sẽ làm suy yếu Mặt trận phía Đông tại thời điểm quyết định. Trong mọi trường hợp, kế hoạch này là quá tham vọng. Tập đoàn quân SS Panzer 6 của Tướng Sepp Dietrich và Tập đoàn quân Panzer 5 của Tướng Hasso von Manteuffel là mũi nhọn xung kích của cuộc hành quân. Tuy nhiên, việc thiếu nhiên liệu đã gây ra hậu quả nghiêm trọng và khó tin là liệu họ có đạt được mục tiêu tại Antwerp, căn cứ chính cung cấp hậu cần cho quân đội Đồng minh tại phía tây
    hk111333, hunterxmn, tonkin20072 người khác thích bài này.
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Tôi thấy những quyển viết về Thế chiến này rất hay. Mình xem và ngẫm ra rất nhiều điều. Đừng trung lập quá. Không có nghĩa là Bên thắng cuộc là đúng cả, bên thua cuộc là sai hết. Bác Vacbay03 cứ post tiếp nhé. Tôi luôn luôn like cho Bác
  8. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Hitler theo đuổi giấc mơ về sự đảo ngược tình thế chiến tranh và buộc Roosevelt và Churchill ngồi vào bàn đàm phán. Ông dứt khoát từ chối bất cứ đề nghị đàm phán nào với với Liên Xô, một phần vì lý do vững chắc rằng Stalin chỉ quan tâm đến việc hủy diệt nước Đức Quốc xã, nhưng cũng có một trở ngại cơ bản.
    Hitler chịu hậu quả từ sự kiêu căng cá nhân tàn bạo. Ông có thể không được công nhận như người yêu cầu hoà bình khi Đức đã mất. Do đó một chiến thắng tại Ardennes là quan trọng đối với mọi lý do. Nhưng sự phòng thủ ngoan cường của quân đội Mỹ, đặc biệt là ở Bastogne, và việc triển khai lớn của không lực Đồng Minh khi thời tiết tốt, đã phá vỡ đà tấn công trong vòng một tuần.
    Vào đêm trước Giáng sinh, Tướng Heinz Guderian, Tư lệnh tối cao của OKH, lái chiếc xe Mercedes công vụ to lớn của mình đến Tổng hành dinh Quốc trưởng ở phía tây. Sau khi từ bỏ Wolfsschanze, hoặc ‘Hang sói’ ở Đông Phổ ngày 20 tháng 11 năm 1944, Hitler đã chuyển đến Berlin vì một cuộc giải phẫu cổ họng nhỏ. Sau đó ông rời thủ đô vào tối ngày 10 tháng mười hai trên con tàu bọc thép cá nhân của mình. Điểm đến là một cơ sở bí mật ngụy trang trong rừng gần Ziegenberg, dưới bốn mươi cây số từ Frankfurt am Main. Được đặt tên là Adlerhorst, hoặc `Tổ Đại Bàng”, nó là lần cuối cùng trong lãnh vực này mà Tổng Hành dinh được biết đến với mật mã với sự tưởng tượng sặc mùi trẻ con.
    Guderian, nhà lý luận vĩ đại của chiến tranh xe tăng, đã biết đến những nguy hiểm của kiểu hành quân như vậy từ đầu, nhưng ông đã ít nói trong vấn đề này. Mặc dù OKH chịu trách nhiệm về mặt trận phía Đông, nó không bao giờ được phép rảnh rang. OKW, chỉ huy tối cao của quân Đức (tất cả các lực lượng vũ trang), chịu trách nhiệm về các chiến dịch quân sự ngoài phạm vi mặt trận phía Đông. Cả hai cơ quan này nằm ở phía nam của Berlin tại khu phức hợp ngầm dưới lòng đất ngoại ô ở Zossen.
    Bất chấp tính khí thất thường của Hitler, quan điểm của Guderian là rất khác biệt. Ông có ít thời gian cho chiến lược nghiên cứu đầy đủ về thế giới khi đất nước bị tấn công từ cả hai phía. Thay vào đó, ông dựa vào bản năng của một người lính trong quan điểm về mối hiểm hoạ tột cùng. Không hề nghi ngờ về việc mối hiểm hoạ đó sẽ xảy ra tại đâu. Vali của ông chứa đựng những phân tích tình báo của Tướng Reinhard Gehlen, người đứng đầu Fremde Heere Ost, bộ phận tình báo quân sự mặt trận phía Đông. Gehlen tính rằng khoảng 12 tháng Giêng Hồng quân sẽ khởi động một cuộc tấn công lớn từ chiến tuyến sông Vistula. Bộ phận tình báo của ông ước tính rằng kẻ địch có tỷ lệ vượt trội 11-1 về bộ binh, 7-1 về xe tăng, 20-1 về pháo binh và cũng chiếm ưu thế về không quân.
    Guderian bước vào phòng hội nghị tại Adlerhorst, thấy mình đang đối mặt với Hitler và bộ chỉ huy quân sự của ông ta, cũng như Heinrich Himmler, chỉ huy SS, người sau âm mưu Tháng Bảy, đã được bổ nhiệm làm Tư lệnh quân dự bị. Mỗi thành viên trong bộ chỉ huy quân sự của Hitler được chọn vì lòng trung thành mù quáng của mình. Thống chế Keitel, Chánh văn phòng của OKW, nổi tiếng với thân phận nô bộc của mình đối với Hitler. Sĩ quan quân đội bực tức gọi ông ta, hoặc là “nhân viên phục vụ nhà để xe của Quốc Trưởng” hoặc `con lừa gật đầu’. Thượng tướng Jodl, người có khuôn mặt lạnh lùng, khó gần, có năng lực tốt hơn nhiều so với Keitel, nhưng ông hầu như không bao giờ phản đối nỗ lực tai hại của Fiihrer để kiểm soát tất cả các tiểu đoàn. Ông đã gần như bị sa thải vào mùa thu năm 1942 vì đã dám cãi lại ông chủ của mình. Tướng Burgdorf, phụ tá tư lệnh quân đội của Hitler kiêm chỉ huy bộ phận nhân sự quân đội kiểm soát mọi sự bổ nhiệm, đã thay thế tướng Schmundt tận tuỵ, bị trọng thương bởi trái bom của Stauffenberg tại Hang Sói. Burgdorf là người đã gửi chất độc cho Thống chế Rommel, với tối hậu thư ép ông ta tự tử.
    Sử dụng các kết quả của bộ phận tình báo của Gehlen, Guderian phác hoạ việc tích cực chuẩn bị của Hồng quân cho một cuộc tấn công lớn ở phía đông. Ông cảnh báo rằng cuộc tấn công sẽ diễn ra trong vòng ba tuần nữa và yêu cầu rằng, kể từ khi cuộc tấn công Ardennes trên bộ dừng lại, nhiều sư đoàn có thể được thu hồi để tái phối trí trên mặt trận Vistula. Hitler ngăn lại. Ông ta tuyên bố những ước tính về sức mạnh của đối phương như vậy là phi lý. Sư đoàn súng trường Liên Xô không bao giờ có hơn 7.000 người. Quân đoàn xe tăng của họ hầu như không có xe tăng. `Đó là sự lừa gạt lớn nhất kể từ thời Thành Cát Tư Hãn ", ông ta nổi giận hét lên `Ai chịu trách nhiệm về việc làm ra cái đống rác rưởi này ?'
    Guderian chống lại sự cám dỗ để trả lời rằng đó là Hitler người suy giảm sức mạnh của `tập đoàn quân' Đức khi quy mô của nó chỉ là bằng một quân đoàn, và “các sư đoàn bộ binh’ với sức mạnh tương đương tiểu đoàn. Thay vào đó, ông bảo vệ số liệu của Gehlen. Tướng Jodl cho rằng chiến dịch phản công ở phía tây nên tiếp tục với các cuộc tấn công mạnh hơn nữa. Vì đây là chính xác những gì Hitler muốn, Guderian đã bị ngăn cản. Nó thậm chí còn khiêu khích hơn khi ông ta phải lắng nghe trong bữa ăn những nhận định của Himmler, người thích thú trong vai trò lãnh đạo quân sự mới. Ông ta gần đây đã được bổ nhiệm là chi huy cụm tập đòan quân trên thượng lưu sông Rhine. `Bạn biết không , Thống chế thân yêu của tôi", ông ta nói với Guderian, `Tôi không thực sự tin rằng người Nga sẽ tấn công. Tất cả chỉ là trò bịp bợm khổng lồ "
    Guderian không còn cách nào khác đành phải trở về trụ sở OKH tại Zossen. Trong khi đó, những tổn thất ở phía tây đã được tổng kết. Chiến dịch phản công Ardennes và các chiến dịch phụ của nó tổn thất khoảng 80,000 thương vong cho người Đức.
    Ngoài ra, nó đã tiêu thụ một phần lớn dự trữ nhiên liệu đang trên đà nhanh chóng suy giảm của Đức. Hitler từ chối công nhận rằng trận Ardennes tương đương với trận Kaiserschlacht, trận tấn công cuối cùng của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông từ chối một cách đầy ám ảnh bất kỳ sự tương đồng nào so với năm 1918. Đối với ông, năm 1918 chỉ tượng trưng cho cuộc cách mạng “bị đâm ở sau lưng”, đã hạ bệ vua Đức, làm suy yếu nước Đức với thất bại nhục nhã . Tuy nhiên, Hitler đã có những khoảnh khắc tỉnh táo trong những ngày đó. `Tôi biết chúng ta đã thua trận", ông nói vào một buổi tối với Đại tá Nicolaus von Below, phụ tá Không quân Đức của ông. `Ưu thế của đối phương là quá lớn." nhưng ông tiếp tục đổ tất cả mọi lỗi lầm cho người khác về chuỗi các thảm họa. Tất cả họ đều là `kẻ phản bội,’ đặc biệt là sĩ quan quân đội. Ông nghi ngờ rằng nhiều người đã tỏ ra thông cảm với vụ ám sát thất bại, nhưng họ lại hài lòng nhận huân chương, huy chương từ ông ta. `Chúng tôi sẽ không bao giờ đầu hàng, "ông nói. `Chúng tôi có thể thất bại, nhưng chúng tôi sẽ lôi cả thế giới theo chúng tôi’
    Kinh hoàng bởi thảm họa mới xuất hiện tại Vistula, Guderian trở lại”Tổ đại bàng” tại Ziegenberg hai lần nữa với hy vọng thành công nhanh chóng. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, ông nghe nói rằng Hitler, không báo trước ông ta, đã chuyển các đơn vị SS xe tăng từ mặt trận Vistula tới Hungary. Hitler, thuyết phục như thường lệ theo kiểu chỉ có ông ta mới thấy được các vấn đề chiến lược, đột nhiên quyết định khởi động một cuộc phản công trên bộ tại đó với lý do các mỏ dầu phải được chiếm lại. Thực ra, ông muốn đột phá tới Budapest, vốn đã bị bao vây bởi Hồng quân vào đêm trước Giáng sinh
    Sự trở lại của Guderian vào ngày đầu năm mới trùng với sự họp mặt hàng năm của các nhân vật quan trọng của chế độ, trực tiếp chuyển đến Fuhrer ‘lời chúc cho một năm mới thành công’. Cùng buổi sáng hôm đó, chiến dịch Gió Phương Bắc, hành động quân sự bổ sung chủ yếu, để kéo dài chiến dịch phản công Ardennes, đã diễn ra tại Alsace. Ngày này đã trở thành một thảm họa cho Không quân Đức. Göring, trong một biểu hiện lớn của tinh thần thiếu trách nhiệm, đã cam kết tung ra 1,000 máy bay để tấn công các mục tiêu mặt đất trên Mặt trận phía Tây. Nỗ lực này để gây ấn tượng với Hitler đã dẫn đến sự hủy diệt cuối cùng của Không quân Đức như một lực lượng có hiệu quả, nó đã đem lại cho Đồng minh ưu thế tuyệt đối ở trên không.
    Bài phát biểu năm mới của Hitler được phát thanh trền đài radio ngày hôm đó. Không một lời đề cập đến các cuộc giao tranh ở phía tây, vốn được coi là thất bại, và Wunderwaffen “Vũ khí kỳ diệu” được nói đến ít một cách ngạc nhiên. Một số người tin rằng bài phát biểu đã được thu âm trước hoặc thậm chí là giả mạo. Việc Hitler không xuất hiện trước công chúng một thời gian quá lâu gây ra nhiều tin đồn. Một số khẳng định rằng ông đã hoàn toàn mất trí và Goring đã bị giam trong một nhà tù bí mật vì ông cố gắng trốn thoát đến Thụy Điển.
    Một số cư dân Berlin, với nỗi sợ những gì mà năm nay sẽ mang lại, đã không dám chạm cốc khi nâng ly chúc mừng `Prosit Neujahr! '. Gia đình Goebbels chiêu đãi Đại tá Hans-Ulrich Rudel, Át chủ bài Stuka và là sĩ quan có nhiều huy chương nhất trong Không quân Đức. Họ ăn tối với súp khoai tây như một biểu tượng của việc thắt lưng buộc bụng.
    Kỳ nghỉ năm mới kết thúc vào sáng ngày 3 tháng một. Sự tận tâm của người Đức đối với công việc và trách nhiệm là không nghi ngờ, tuy nhiên lại không chắc chắn về hoàn cảnh. Nhiều người có ít việc để làm trong văn phòng và nhà máy của họ, do tình trạng thiếu nguyên liệu và các phụ tùng, nhưng họ vẫn đi làm, đi bộ xuyên qua đống đổ nát hoặc bằng phương tiện công cộng. Một lần nữa, phép lạ đã được tái hiện trong việc sửa chữa nhà ga U-Bahn và S-Bahn, mặc dù chỉ có vài toa xe có cửa sổ không bị vỡ. Các nhà máy và văn phòng bị đông cứng do cửa sổ đã bị đập vỡ và có rất ít nhiên liệu để sưởi ấm. Những người bị cảm lạnh hoặc cúm đã phải nỗ lực để vượt qua. Chẳng có lý do gì để gặp bác sĩ, trừ khi bạn bị bệnh nặng. Hầu như tất cả các bác sĩ Đức đã được gọi vào quân đội. Phòng khám bệnh địa phương và bệnh viện hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào người nước ngoài. Thậm chí Bệnh viện giảng dạy chính của Berlin, các Charite, bao gồm các bác sĩ từ hơn nửa chục quốc gia bao gồm Hà Lan, Peru, Romania, Ukraine và Hungary.
    Ngành công nghiệp phát đạt nhất là ngành sản xuất vũ khí, chỉ đạo trực tiếp bởi kiến trúc sư cá nhân của Hitler và wunderkind, Bộ trưởng phụ trách Công Nghiệp quốc phòng, Albert Speer. Ngày 13 tháng Giêng, Speer đã trình bày trước chỉ huy quân đoàn trong trại tại Krampnitz ngoài Berlin. ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên kết giữa các chỉ huy tiền tuyến và ngành công nghiệp chiến tranh. Speer, không giống như các bộ trưởng Đức quốc xã khác, không xúc phạm trí thông minh của thính giả. Ông coi thường việc nói lòng vòng về tình hình và đã chùn bước khi đề cập đến các `thiệt hại thảm khốc’ kéo dài của quân đội Đức trong tám tháng qua.
    Các chiến dịch ném bom của Đồng Minh không phải là vấn đề, ông lập luận. Ngành công nghiệp Đức đã sản xuất 18, 000 súng trường chỉ riêng tháng Mười Hai, gần như tăng gấp đôi sản lượng trung bình hàng tháng đạt được vào năm 1941, năm quân Đức xâm lược Liên Xô. Sản xuất các loại vũ khí tự động đã tăng gần bốn lần và sản xuất xe tăng tăng gần gấp năm lần. Trong tháng 12 năm 1944, họ đã sản xuất 1,840 xe bọc thép trong một tháng, hơn một nửa những gì họ đã thực hiện trong cả năm 1941. Điều này cũng bao gồm xe tăng hạng nặng hơn. `Vấn đề khó khăn nhất", ông cảnh báo họ, là sự thiếu hụt nhiên liệu. Đáng ngạc nhiên, ông nói đã có ít dự trữ đạn dược. Có nhược điểm nhỏ trong việc sản xuất các loại vũ khí này nếu sản xuất đạn dược không theo kịp.
    Speer nói trong hơn bốn mươi phút, trình bày lưu loát các số liệu thống kê của mình với sự trầm tĩnh chuyên nghiệp. Ông không bỏ qua thực tế là hàng loạt những thất bại trên các mặt trận phía Đông và phía Tây trong tám tháng qua đã làm suy yếu quân đội Đức với sự thiếu hụt như vậy trong tất cả các loại vũ khí. Ông bày tỏ hy vọng rằng các nhà máy của Đức có thể đạt được một mức độ sản xuất 100,000 khẩu súng một tháng vào mùa xuân năm 1946. Việc các doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào lao động nô lệ Slave bị ép buộc bởi lực lượng SS, tất nhiên, không được đề cập đến. Speer cũng không bình luận về sự lãng phí của họ - hàng ngàn người chết mỗi ngày. Và các vùng lãnh thổ nơi mà những lao động này sống trước đây mỗi lúc mỗi thu hẹp hơn nữa. Ngay lúc này, quân đội Liên Xô với quân số hơn 4 triệu người đã tập trung tại Ba Lan dọc theo sông Vistula và phía nam của biên giới Đông Phổ. Họ đã bắt đầu cuộc tấn công mà Hitler đã bác bỏ như một trò lừa bịp
    hk111333, huytoptonkin2007 thích bài này.
  9. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Ngôi nhà bằng quân bài trên bờ sông Vistula

    Sự ước tính về sức mạnh của Sô Viết của tướng Gehlen chắc chắn không phải là sự phóng đại. Hồng quân đã có 6,7 triệu binh sĩ dọc theo chiến tuyến kéo dài từ Baltic đến Adriatic. Nó lớn hơn gấp đôi sức mạnh của Wehrmacht và các đồng minh của mình khi họ xâm lược Liên Xô vào tháng Sáu năm 1941. Niềm tin của Hitler rằng mùa hè năm đó Hồng quân sắp sụp đổ đã được chứng minh là một trong những tính toán sai lầm thảm khốc nhất trong lịch sử.
    `Chúng tôi đã thua trận," một trung sĩ Đức thừa nhận trong tháng 1 năm 1945, nhưng `chúng tôi sẽ chiến đấu đến người cuối cùng’. Những chiến binh thiện chiến của mặt trận phía Đông đã đi đến chỗ tin rằng tất cả phải kết thúc bằng cái chết. Họ biết những gì đã xảy ra trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và rằng Hồng quân có ý định trả thù. Đầu hàng có nghĩa là được làm việc cho đến chết trong các trại lao động Siberia như một `Stahnpferd ', ` con ngựa của Stalin`. ‘Chúng tôi không còn chiến đấu cho Hitler, hoặc cho chủ nghĩa xã hội quốc gia, hoặc đế chế thứ ba’, một cựu chiến binh Alsatian sư đoàn Grossdeutschland đã viết, hoặc`ngay cả cho vị hôn thê, mẹ của chúng tôi hoặc gia đình bị mắc kẹt trong làn bom đạn tàn phá thị trấn. Chúng tôi đã chiến đấu đơn giản vì sợ hãi... Chúng tôi chiến đấu cho chính mình, để không phải chết trong hố đầy bùn và tuyết, chúng tôi đã chiến đấu như chuột.’

    Những thảm họa của các năm trước, trên cả việc tập đoàn quân Trung tâm bị bao vây và tiêu diệt, là khó quên. Các cán bộ lãnh đạo quốc gia xã hội, sự mô phỏng của Đức Quốc xã theo kiểu chính ủy Liên Xô, cố gắng để nâng cao tinh thần chiến đấu của người lính bình thường của Đức, Landser, với lời hứa hẹn cũng như đe dọa hành quyết bất cứ ai đào ngũ hoặc rút lui mà không có lệnh. `Bạn không cần phải lo sợ người Nga tấn công ", họ nói `Nếu đối phương bắt đầu tấn công, xe tăng của chúng ta
    sẽ ở đây trong bốn giờ’. Nhưng những người lính có kinh nghiệm hơn biết những gì họ sẽ phải chống lại.
    Mặc dù cấp dưới của Guderian tại Zossen đã dự đoán chính xác về ngày của cuộc tấn công, thông tin có vẻ đã không được truyền đạt xuống chiến tuyến. Hạ sĩ Alois K., của Sư đoàn bộ binh 304, bị bắt như một `cái lưỡi 'bởi toán đột kích của Liên Xô, nói với sĩ quan tình báo Mặt trận Ukraina 1 rằng họ đã mong đợi một cuộc tấn công trước Giáng sinh, sau đó họ được thông báo một cuộc tấn công sẽ diễn ra vào ngày 1 tháng 1 bởi vìngày đó được cho là sinh nhật của Stalin.
    Vào ngày 09 tháng 1, sau khi thị sát khẩn cấp ba mặt trận chính ở phía đông -Hungary, Vistula và Đông Phổ. Tướng Guderian, đi kèm bởi phụ tá của ông, thiếu tá Baron von Freytag Loringhoven, đã một lần nữa đi gặp Hitler tại Ziegenberg. Ông đã trình bày các ước tính mới nhất về sức mạnh của kẻ địch bằng tài liệu của Gehlen và của chỉ huy Không quân Đức, tướng Seidemann. Trinh sát đường không cho thấy có đến 8, 000 máy bay Liên Xô tập trung tại mặt trận Vistula và Đông Phổ. Göring cắt ngang vị Tổng tư lệnh quân đội. "Fuhrer thân mến , đừng tin điều đó" ông nói với Hitler. `Đó không phải là máy bay thực sự. Đó chỉ là máy bay mô hình". Keitel, trong sự kiên quyết đầy vẻ nịnh hót, đấm tay xuống mặt bàn. `Các Thống chế Đức là đúng," ông tuyên bố.
    Cuộc họp tiếp tục như một trò hề ảm đạm. Hitler lặp đi lặp lại quan điểm của ông rằng các số liệu tình báo là `hoàn toàn ngu ngốc" và nói thêm rằng người làm ra chúng phải được nhốt trong một nhà thương điên. Guderian vặn lại một cách giận dữ rằng kể từ khi ông ủng hộ hoàn toàn những số liệu đó, ông ta tốt hơn nên chứng thực điều đó là tốt. Hitler từ chối theo yêu cầu của Tướng Harpe ở mặt trận Vistula và Tướng Reinhardt ở Đông Phổ rút các đơn vị dễ bị tổn thương nhất của họ để đưa đến các vị trí phòng thủ tốt hơn. Ông cũng nhấn mạnh rằng 300,000 quân Đức bị mắc kẹt trên bán đảo Courland ở Latvia nên ở lại đó và không được di tản bằng đường biển để bảo vệ biên giới của đế chế Đức. Guderian, tức giận với các chiến lược `đà điểu ' tại tổng hành dinh Fuhrer, chuẩn bị rời khỏi đó. `Mặt trận phía Đông," Hitler nói, đột nhiên cố gắng mềm mỏng với ông `đã chưa bao giờ có được một lực lượng dự trữ mạnh mẽ như bây giờ. Đó là việc ông đang làm. Tôi cảm ơn ông vì điều đó. "
    `Mặt trận phía Đông, 'Guderian vặn lại,` giống như một ngôi nhà làm bằng các quân bài. Chỉ cần chiến tuyến bị phá vỡ tại một điểm tất cả các phần còn lại sẽ sụp đổ." Trớ trêu thay, Goebbels đã sử dụng chính xác hình tượng tương tự vào năm 1941 về Hồng quân.
    Guderian trở lại Zossen trong `một tâm trạng rất nghiêm trọng '. Ông tự hỏi liệu Hitler và sự nghèo nàn trí tưởng tượng của Jodl có điều gì liên quan đến thực tế là cả hai đều xuất thân từ những khu vực của đế chế Đức - Áo và Bayern – những nơi không bị đe dọa. Guderian là là người Phổ. Quê hương của ông ta sắp bị tàn phá, và có thể bị mất mãi mãi. Hitler, để ban thưởng cho vị chỉ huy xe tăng kiệt xuất của mình vì những thành công thời kỳ đầu chiến tranh, đã trao tặng ông bất động sản của Deipenhof trong Warthegau, khu vực phía tây Ba Lan mà Đức quốc xã đã cướp đoạt và sáp nhập vào nước Đức. Nhưng bây giờ cuộc tấn công sắp xảy ra trên sông Vistula cũng đe dọa điều đó. Vợ ông vẫn ở đó. Bị theo dõi chặt chẽ bởi lãnh đạo Đảng Quốc xã địa phương, bà ấy sẽ không thể rời khỏi cho đến thời điểm cuối cùng.
    Chỉ hơn hai mươi bốn giờ sau đó, cấp dưới của Guderian tại Zossen nhận được xác nhận rằng cuộc tấn công được tính bằng giờ chứ không phải là ngày nữa. Công binh Hồng quân đã tiến hành dọn bãi mìn vào ban đêm và các quân đoàn xe tăng được đưa ra hướng đến các vị trí đầu cầu. Hitler đã ra lệnh các đon vị xe tăng dự bị ở mặt trận Vistula nên được di chuyển về phía trước, bất chấp những lời cảnh báo rằng điều này sẽ khiến cho họ nằm trong tầm hoả lực pháo binh Liên Xô. Một số sĩ quan cao cấp đã bắt đầu tự hỏi liệu Hitler, một cách vô thức muốn để thua trận.
    Hồng quân dường như tạo một thói quen tấn công trong điều kiện thời tiết tồi tệ. Cựu chiến binh Đức, quen với điều này, thường gọi nó là `thời tiết của người Nga’ Quân đội Xô Viết bị thuyết phục rằng họ có lợi thế lớn trong tác chiến mùa đông, dù là trong sương giá hoặc bùn lầy. Tỷ lệ tương đối thấp bị tê cóng và bợt da do ngâm nước lâu ngày là do việc quân đội Nga sử dụng thô lanh băng chân truyền thống thay vì vớ. Dự báo thời tiết đã tiên đoán một mùa đông `kỳ lạ’. Sau cái lạnh buốt của tháng Giêng, `mưa lớn và tuyết bùn lầy' đã được dự đoán. một mệnh lệnh được đưa ra: `giày da phải được sủa chữa’
    Hồng quân đã tiến bộ trong nhiều lĩnh vực - vũ khí hạng nặng, tính chuyên nghiệp trong việc lập kế hoạch, ngụy trang và kiểm soát chiến dịch quân sự, điều thường xuyên đưa người Đức vào thế bất lợi, nhưng một số điểm yếu còn tồn tại. Tồi tệ nhất là sự hỗn loạn của tình trạng thiếu kỷ luật, điều đáng kinh ngạc trong một nhà nước độc tài toàn trị. Một phần của vấn đề là từ sự tiêu hao khủng khiếp các sĩ quan trẻ.
    Thời kỳ này là một trường học lớn đầy khó khăn cho các thiếu uý bộ binh mới mười bảy mười tám tuổi. `Tại thời điểm đó," tiểu thuyết gia và phóng viên chiến trường Konstantin Simonov viết, `những người trẻ tuổi đã trở thành người lớn trong một năm, một tháng hoặc thậm chí trong quá trình của một trận chiến". Nhiều người, tất nhiên, không bao giờ sống sót sau trận chiến đầu tiên. Để chứng minh giá trị bản thân trước những người lính kỳ cựu đang làm công việc chỉ huy mà một số người đáng tuổi cha của họ, họ đã cho thấy sự can đảm liều lĩnh và hứng chịu hậu quả do điều đó
    Vô kỷ luật cũng đến từ cách đối xử vô nhân đạo mà binh sĩ Hồng quân đã phải chịu đựng từ cấp trên của họ. Và, tất nhiên, điểm mạnh và điểm yếu của bản sắc dân tộc phức tạp cũng đóng góp một phần. `Các lính bộ binh Nga, 'như một nhà văn đã nói:` là khỏe mạnh, không đòi hỏi, bất cẩn và bị thuyết định mệnh thuyết phục ... Đó là những đặc điểm làm cho anh ta không thể so sánh". Một người lính trơn trong một sư đoàn súng trường cung cấp một bản tóm tắt trong cuốn nhật ký của ông về tâm trạng thay đổi của những đồng chí của mình
    `Trạng thái thứ nhất: người lính không có chỉ huy bên cạnh. Anh ta hay càu nhàu. Anh ta đe dọa và phô trương. Anh ta khao khát xoáy một thứ gì đó hoặc lôi một người nào đó vào một cuộc tranh luận ngu ngốc. Người ta có thể nhìn thấy từ những sự khó chịu này một sự thật là cuộc sống của người lính là khó khăn đối với anh ta.’ ‘Trạng thái thứ hai: người lính khi có sự sự hiện diện của chỉ huy: phục tùng và câm lặng. Luôn sẵn sàng đồng ý với những gì chỉ huy nói. Dễ dàng tin vào lời hứa. Ba hoa khi được đánh giá cao và sẵn sàng ngưỡng mộ sự nghiêm khắc của các sĩ quan chỉ huy mà anh ta sẽ đem ra làm trò cười sau lưng họ’
    ‘Trạng thái thứ ba: làm việc cùng nhau hoặc trong trận chiến: Anh ta là một anh hùng. Anh ta sẽ không bỏ mặc đồng đội mình khi gặp nguy hiểm. Anh ta qua đời lặng lẽ, như thể nó vẫn còn là một phần của công việc của mình."
    Các đơn vị xe tăng trong Hồng quân đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đã từng trải qua trạng thái mất tinh thần như không quân Xô Viết trong những năm đầu của cuộc chiến, họ đã bắt đầu có tư cách anh hùng. Vasily Grossman, tiểu thuyết gia và phóng viên chiến trường khác, bây giờ thấy `tankists’ (những người lính lái xe tăng) cũng hấp dẫn như các tay súng bắn tỉa ở Stalingrad. Ông mô tả họ một cách thán phục`kị binh, pháo và cơ giới hoà quyện thành một '. Tuy nhiên, sức mạnh lớn nhất của Hồng quân chính là lý tưởng cháy bỏng rằng cuối cùng, họ đã vươn tới đế chế Đức. Những kẻ gây tội ác trên đất mẹ Xô Viết sẽ thấm thía ý nghĩa của câu ngạn ngữ “Gieo gì gặt nấy”
    Vào cuối tháng Mười năm 1944, khái niệm cơ bản của chiến dịch quân sự đã được phê duyệt về nguyên tắc bởi Stavka, Tổng hành dinh tối cao Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Nguyên soái Stalin, chức vụ ông đã tự phong sau trận đánh Stalingrad. Stalin có ý định kiểm soát toàn bộ, ông cho phép các Tư lệnh được hành động trong phạm vi rộng, điều mà các đối thủ Đức của họ ganh ghét, và không giống như Hitler, ông lắng nghe cẩn thận các ý kiến trái chiều. Tuy nhiên ông không có ý định cho phép các chỉ huy cao cấp của Hồng quân được đề cao vai trò khi thời điểm chiến thắng gần kề. Ông chấm dứt việc bổ nhiệm “Đại diện Stavka” để giám sát các chiến dịch hành quân, thay vào đó, ông tự đảm nhiệm vai trò này mặc dù ông vẫn không có ý định đi đến bất cứ nơi nào gần chiến tuyến. Stalin cũng đã quyết định đưa ra các mệnh lệnh quan trọng, nếu điều này dẫn đến đố kỵ và `đảo lộn', thì ông ta cũng chẳng màng.
    Sự thay đổi chính yếu là thay thế Nguyên soái Konstantin Rokossovsky, Tư lệnh mặt trận Bêlarussia 1, cụm tập đoàn quân chủ yếu trên đường tiến đến Berlin. Rokossovsky, một kỵ sĩ đẹp trai, cao lớn, thanh lịch, một sự tương phản nổi bật so với nhiều chỉ huy Nga, nhiều người trong số đó béo lùn, nông dân với cái đầu cạo nhẵn. Ông cũng khác biệt theo một cách khác, ông có nửa dòng máu Ba Lan, là cháu trai và cháu nội của một sĩ quan kỵ binh Ba Lan . Điều này khiến ông nguy hiểm trong mắt Stalin. Sự hận thù của Stalin đối với đất nước này bắt đầu từ chiến tranh Nga-Ba Lan năm 1920, khi ông bị cho là có một phần trách nhiệm về sự thất bại tai hại của Hồng quân trong chiến dịch tấn công Warsaw.
    Rokossovsky cảm thấy bị xúc phạm khi ông nghe nói rằng ông được chuyển sang chỉ huy Phương diện Belorussia 2 để tấn công Đông Phổ. Nguyên soái Georgy Zhukov, một người cứng rắn và kiên định, chỉ huy cuộc phòng thủ Moscow tháng 12 năm 1941, đảm nhận cương vị của ông. `Tại sao lại có sự phân biệt đối xử này?” Rokossovsky yêu cầu `Tại sao tôi bị chuyển từ hướng tấn công chính đến một trong những hướng phụ khác ít quan trọng hơn?". Rokossovsky nghi ngờ rằng Zhukov, người mà ông coi là bạn, ngầm chơi xấu ông, nhưng trong thực tế Stalin không muốn một người Ba Lan tận hưởng vinh quang của việc chiếm lấy Berlin. Cũng là lẽ tự nhiên mà Rokossovsky bị nghi ngờ, ông đã bị bắt giữ trong cuộc thanh trừng trong Hồng quân năm 1937. Những trận đòn từ đám tay sai của Beria nhằm buộc thú tội phản quốc là đủ để làm cho ngay cả một người vững vàng nhất cũng bị hoang tưởng nhẹ. Và Rokossovsky biết rằng Lavrenty Beria, người đứng đầu cảnh sát mật NKVD, và Viktor Abakumov, giám đốc phản gián SMERSH, giám sát ông chặt chẽ. Stalin đã làm Rokossovsky không hề nghi ngờ rằng, sự buộc tội năm 1937 vẫn còn treo lơ lửng trên đầu ông, ông chỉ đơn giản là được tha có điều kiện, bất kỳ sai lầm nào trong việc chỉ huy sẽ đưa ông thẳng trở lại trại giam NKVD. `Tôi biết rất rõ Beria có khả năng làm những gì", Rokossovsky nói với Zhukov trong lúc bàn giao `Tôi đã ở trong nhà tù của ông ta'. Các tướng lãnh Liên Xô sẽ mất tám năm để trả thù Beria.
    Các lực lượng của Phương diện quân Belorussia 1 và Ukraina 1 dàn trận trước chiến tuyến Đức dọc theo Vistula không chỉ đơn giản là vượt trội, mà là áp đảo. Ở cánh nam của Zhukov, phương diện quân Ukraina 1 của Nguyên soái Konev sẽ tấn công về phía đông hướng tới Breslau, cuộc đột kính chính sẽ được tung ra từ đầu cầu Sandomierz, chỗ lồi lớn nhất trên bờ phía tây của sông Vistula. Tuy nhiên, không giống như Zhukov, Konev có ý định sử dụng hai tập đoàn quân xe tăng của mình để đập tan hàng phòng thủ của kẻ địch trong những ngày đầu tiên.
    Konev, theo con trai của Beria, có `đôi mắt độc ác, một cái đầu cạo nhẵn trông như một quả bí ngô, và phong thái rất ngạo mạn’. Ông có thể là viên tướng được yêu thích của Stalin, và là một trong số rất ít chỉ huy cấp cao, người mà thậm chí Stalin ngưỡng mộ vì sự tàn nhẫn của mình. Stalin đã thăng chức Nguyên soái Liên Xô cho ông ta sau khi ông nghiền nát cái túi Korsun, phía nam của Kiev, không đầy một năm trước, nó là một trong những cuộc đụng độ tàn bạo nhất trong một cuộc chiến tranh tàn nhẫn không kém.
    Konev ra lệnh cho máy bay của mình thả bom cháy xuống thị trấn nhỏ Shanderovka để buộc người Đức trú ẩn ở đó phải chạy ra ngoài và rơi vào bão tuyết, khi họ phải vật lộn để thoát ra khỏi vòng vây ngày 17 tháng hai 1944, Konev bật cái bẫy của mình. Đội hình xe tăng của ông ta xông thẳng vào hàng người, xả súng máy và đuổi theo những người chạy trốn, nghiền nát họ dưới bánh xích. Khi quân Đức tan rã, cố gắng để chạy trốn trong tuyết dày đặc, ba sư đoàn kỵ binh của Konev đuổi theo. Lính Cossacks chém họ không thương tiếc bằng lưỡi kiếm của họ, kể cả những cánh tay giơ lên đầu hàng. 20,000 lính Đức chết ngày hôm đó.
    Vào ngày 12 tháng Giêng, chiến dịch tấn công Vistula bắt đầu lúc 5 giờ sáng giờ Moscow, khi phương diện quân Ukraina 1 của Konev tấn công từ đầu cầu Sandomierz. Tuyết dày đặc và tầm nhìn gần như là con số không. Sau khi các đại đội trừng giới bị bắt buộc tiến qua các bãi mìn, các tiểu đoàn súng trường chiếm lĩnh vị trí trên tuyến tấn công, pháo binh bắt đầu bắn phá dữ dội, lên đến 300 khẩu pháo trên một cây số, nghĩa là cách ba đến bốn mét một khẩu. Tuyến phòng thủ Đức đã bị tan vỡ. Hầu hết trong số họ đầu hàng, xanh xám và run rẩy. Một sĩ quan pháo binh Panzer theo dõi từ phía sau tuyến phòng thủ mô tả những cảnh tượng trên đường chân trời như một "cơn bão lửa" và nói thêm rằng `như cái chết từ trên trời ập xuống mặt đất’. Tù binh từ Sư đoàn Panzer 16 bị bắt vào cuối ngày hôm đó cho rằng ngay khi sự bắn phá bắt đầu, chỉ huy của họ, Thiếu tướng Miiller, lái xe đi về phía thị trấn Kielce, bỏ mặc binh lính của mình.
    Lính xe tăng Liên Xô sơn những khẩu hiệu trên tháp pháo của họ: 'Tiến vào hang ổ bọn phát xít!" và `trả thù và cái chết cho những kẻ chiếm đóng Đức!”. Họ hầu như không gặp sự kháng cự khi những chiếc xe tăng T-34 và Stalin nặng nề của họ di chuyển về phía trước vào buổi chiều. Thân xe của họ phủ trong sương giá, cũng là cách ngụy trang tốt nhất trong khung cảnh tuyết phủ, ngay cả khi tất cả là màu nâu do bùn bị bắn tung lên do đạn trái phá
    Cùng với Breslau, mục tiêu chính của Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 3 của Tướng Rybalko và Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 4 của Tướng Lelyushenko là khu vực công nghiệp của Silesia. Khi Stalin giao nhiệm vụ cho Konev ở Moscow, ông đã chỉ vào bản đồ và khoanh tròn vùng đó bằng ngón tay. Ông nói thầm một từ duy nhất: `vàng’. Không cần thiết phải bình luận thêm, Konev biết rằng Stalin muốn chiếm lấy các nhà máy và hầm mỏ nguyên vẹn.
    nguyen411huytop thích bài này.
  10. NoIdea

    NoIdea Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/06/2006
    Bài viết:
    389
    Đã được thích:
    27
    Xin phép kéo áo bác cái.
    Chắc bác gõ nhầm, 1 Tập đoàn quân Liên Xô ngang với 1 quân đoàn Đức chứ ạ?
    danngoc thích bài này.

Chia sẻ trang này