1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiềm lực quân sự Trung Quốc phần 5

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi halosun, 23/11/2018.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mimosalq

    mimosalq Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/04/2006
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    137
    Tụi nó về sợ bị tụi chndth ăn thịt, nó nói dân Tây tạng 50 _ 60 triệu giờ còn mấy móng. Tầu nó ăn thịt người kinh lắm.
  2. oplot1_

    oplot1_ Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    04/10/2017
    Bài viết:
    654
    Đã được thích:
    72
    hihi sao mày mới sủa bên Mỹ toàn rồ Mỹ ghét tàu khựa CS lắm mà, giờ sủa sao đây :)) té ra cu cậu đếch phải ở Mỹ lâu nay nói láo ở Mỹ như thiệt =))

    cái loại mày bố chốt 1 câu là chỉ sủa bậy cả đời, nước Mỹ nhận những thằng ăn trực trợ cấp như mày nếu có thì thầy cũng mừng vì như vậy thì TQ, Nga và các nước ghét Mỹ kê gối ngủ ngon được, vì nhận những pet đúng nghĩa ko có 1 kiến thức nào trong não, chỉ ăn trực tiền trợ cấp thất nghiệp

    những pha tự cắn đuôi kinh điển

    [​IMG]
    [​IMG][​IMG]

    Người Mỹ có ai đi ăn cắp ảnh trên mạng như mày ko nhĩ ?
  3. mimosalq

    mimosalq Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/04/2006
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    137
    Hehe nói chung cả thế giới thích chndth bị hấp diêm nữa để không còn chuyện tụi nó mỗ người lấy nội tạng kinh doanh, lấy thịt người làm thực phẩm.
  4. oplot1_

    oplot1_ Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    04/10/2017
    Bài viết:
    654
    Đã được thích:
    72
    cái loại mày bố chốt 1 câu là chỉ sủa bậy cả đời, nước Mỹ nhận những thằng ăn trực trợ cấp như mày nếu có thì thầy cũng mừng vì như vậy thì TQ, Nga và các nước ghét Mỹ kê gối ngủ ngon được, vì nhận những pet đúng nghĩa ko có 1 kiến thức nào trong não, chỉ ăn trực tiền trợ cấp thất nghiệp và sủa ;-)
  5. oplot1_

    oplot1_ Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    04/10/2017
    Bài viết:
    654
    Đã được thích:
    72
    Chó cứ sủa đoàn người vẫn cứ đi, trở lại với tin quân sự

    Lục soát kho vũ khí của Bắc Kinh

    Trung Quốc đang trở thành địch thủ chủ yếu của Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang.

    [​IMG]
    Khi nói đến sự hiện đại hóa kỹ thuật quân sự của Trung Quốc, cần lưu ý đặc điểm chủ yếu của Trung Quốc - đó là tiềm lực khổng lồ. Xét về sức mua, Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất thế giới, lại sở hữu quân đội đông đảo nhất thế giới. Có nghĩa là ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc về đa số các loại vũ khí sẽ luôn có ưu thế lớn về số lượng không chỉ đối với các nước láng giềng, mà cả đối với các lực lượng Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.

    Tuy nhiên, quan niệm cho rằng, Trung Quốc có khả năng sản xuất loạt các sản phẩm kỹ thuật tinh vi với giá rẻ mạt và ở số lượng khổng lồ dĩ nhiên chỉ là sự phóng đại.
    Hiện nay, nhất là sau sự mất giá của đồng rúp xảy ra vào năm 2014, các mẫu vũ khí trang bị của Nga tương đương hay tốt hơn, có cùng chức năng trở nên rẻ hơn đáng kể các loại của Trung Quốc.
    Điều đó đã được thể hiện cụ thể trong cuộc đấu thầu mua xe tăng ở Thái Lan vào năm 2016, nơi xe tăng VT-4 của Trung Quốc lại đắt hơn Т-90 của Nga. Điều thú vị là vấn đề giá cả cũng đã không cản trở được Trung Quốc thắng thầu.
    Trung Quốc hiện vẫn tụt hậu về nhiều hướng phát triển vũ khí trang bị so với cả Mỹ và Nga. Nhưng nếu như trong thập niên 1990 và vào đầu những năm 2000, người ta thường nói đến sự tụt hậu 20-30 năm, thì nay là nói đến sự lạc hậu chỉ 10 năm. Ngay hiện thời, một số loại vũ khí trang bị do Trung Quốc sản xuất gần như đang ở cùng một trình độ với các mẫu đang được Mỹ, Tây Âu và Nga sản xuất.
    Ví dụ, Trung Quốc đang sản xuất tiêm kích thế hệ 4 J-10B trang bị các hệ thống radar phát hiện hiện đại nhất - đó là các radar với anten mạng pha chủ động; các tên lửa không đối không lắp đầu tự dẫn radar chủ động, tương đương với các tên lửa trong trang bị AMRAAM của Mỹ và R-77 của Nga; các hệ thống tên lửa phgongf không rất hiện đại; các tên lửa đường đạn và hành trình tầm trung chính xác cao.
    Các hệ thống pháo Trung Quốc như lựu pháo 155 mm PLZ-05 và các hệ thống rocket phóng loạt hạng nặng như А100 đang giành thắng lợi trong các cuộc đấu thầu trước cả các đối thủ Nga, lẫn phương Tây do hiện tại chúng đang ở trình độ tiên tiến, được bảo đảm bởi các loại đạn chính xác cao.
    Một số thành tựu của Trung Quốc khá độc đáo. Trung Quốc là nước đầu tiên trang bị tên lửa đường đạn tầm trung chống hạm (DF-21D, DF-26D) mà nếu độ tin cậy và tính năng của chúng sẽ được xác nhận thì chúng có thể làm thay đổi diện mạo chiến tranh trên biển. Trung Quốc cùng với Mỹ và Nga đang tích cực thực hiện chương trình chế tạo các hệ thống phòng thủ tên lửa trên chiến trường và phòng thủ tên lửa chiến lược có khả năng đánh chặn tên lửa ở giai đoạn bay giữa. Trung Quốc đang giữ vị trí dẫn đầu trong phát triển vũ khí chống vệ tinh. Theo các chuyên gia Mỹ, Trung Quốc có thể là nước đầu tiên sẽ đưa vào trực chiến các hệ thống vũ khí chống vệ tinh, có khả năng bắn hạ không chỉ các vệ tinh trinh sát trên quỹ đạo thấp, mà cả các vệ tinh định vị toàn cầu ở các quỹ đạo địa tĩnh cao hơn (đến 40.000 km).
    Khó khăn của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn là chưa đủ khả năng tự lực thực hiện những sản phẩm mới đột phá. Đa số các thành tựu của họ gắn với mô hình đặc thù của Trung Quốc là cải tạo sâu các công nghệ du nhập từ bên ngoài. Mô hình này trong đa số các trường hợp đã đi khá xa khỏi kiểu sao chép đơn thuần và trù định sử dụng các công nghệ nước ngoài ở giai đoạn 1, tìm hiểu chúng sâu sắc, tổng hợp lại và chế tạo ra vũ khí trang bị của mình trên cơ sở đó. Nhiều trong những kết quả mới đây của Trung Quốc trong lĩnh vực vũ khí trang bị chính là đạt được bằng cách đó.
    Ví dụ, gần đây, Trung Quốc cuối cùng đã bắt đầu trang bị động cơ tự phát triển và sản xuất WS-10 Taihang cho không chỉ tiêm kích hai động cơ mà cả tiêm kích một động cơ.

    Taihang bắt đầu được thiết kế từ cuối thập kỷ 1980 không phải là sự sao chép một mẫu động cơ nước ngoài nào mà là kết quả của sự phân tích và nghiên cứu sâu sắc cấu tạo của một số loại động cơ máy bay của Liên Xô, châu Âu và Mỹ thời những năm 1980-1990. Nhìn chung, sản phẩm của Trung Quốc vẫn thua kém các mẫu động cơ hiện đại tương tự do Nga sản xuất về tuổi thọ và độ tin cậy. Trong các nỗ lực xuất khẩu máy bay, Trung Quốc gần như luôn buộc phải trang bị cho máy bay của họ các động cơ nhập khẩu, kể cả đối với máy bay lẫn trực thăng. Ngoài ra, Taihang đáp ứng các yêu cầu của máy bay thế hệ 4, trong khi đó Trung Quốc đang sắp sửa đưa vào biên chế các tiêm kích thế hệ 5 J-20 đầu tiên nên Bắc Kinh vẫn muốn hợp tác với Moskva trong lĩnh vực chế tạo động cơ. Tuy nhiên, họ đã thực hiện được bước đi không kém phần quan trọng: Trung Quốc đã có khả năng bảo đảm động cơ cho các máy bay chiến đấu chủ lực của không quân mà không cần sự hỗ trợ của nước ngoài, điều có ý nghĩa quan trọng từ giác độ an ninh quốc gia.

    Hệ thống tên lửa phòng không tầm xa chủ lực của Trung Quốc HQ-9 là sản phẩm lai ghép: một số thành phần thiết bị mặt đất do Nga phát triển theo đơn đặt hàng của Trung Quốc, còn bản thân tên lửa được chế tạo trên cơ sở sử dụng các tài liệu nhận được từ Israel (theo một số phỏng đoán thì có cả nguyên mẫu) tên lửa phòng không có điều khiển MIM-104C của Mỹ và các kết quả nghiên cứu của Trung Quốc.
    HQ-9 hiển nhiên là thua kém các hệ thống tối tân nhất của Nga, do đó, Trung Trung Quốc đã buộc phải mua sắm các hệ thống S-300PMU2 và S-400 của Nga song song vối việc sản xuất các hệ thống của mình. Tuy nhiên, hệ thống tên lửa phòng không HQ-9 cũng khá tốt nên đã thắng thầu trong cuộc đấu thầu mua các hệ thống phòng không ở Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2013, nơi mà HQ-9 đã phải đối đầu với các hệ thống của Mỹ, châu Âu và Nga (kết quả đấu thầu đã bị hủy bỏ dưới áp lực chính trị của Mỹ). Có vai trò quyết định trong thắng lợi này là việc Trung Quốc sẵn sàng đưa ra các điều kiện tài chính hấp dẫn và chuyển giao công nghệ.
    Họ cũng đang nghiên cứu chế tạo các hệ thống tên lửa phòng không nmowis với các tính năng chiến đấu cao hơn nhiều so với HQ-9 và các tính năng đánh chặn mục tiêu đường đạn mạnh hơn.
    Chiến lược sao chép sáng tạo, kết hợp và ứng dụng thích ứng các thành tựu của nước ngoài cho các nhu cầu của mình cho phép Trung Quốc rút ngắn khoảng cách với các nước dẫn đầu đến mức nhỏ nhất, mặc dù không cho phép bứt phá lên trước. Giới lãnh đạo công nghiệp quốc phòng Trung Quốc nhận thức được những hạn chế tồn tại và đang nỗ lực khắc phục chúng. Trong một số trường hợp, họ đã làm được, chẳng hạn như trong lĩnh vực tên lửa đường đạn.

    Việc phát triển các lực lượng hạt nhân chiến lược, xây dựng hệ thống cảnh báo tấn công tên lửa và phát triển các hệ thống phòng thủ tên lửa là những ưu tiên quan trọng nhất đối với Trung Quốc trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự và đang hút lấy những nguồn lực khổng lồ. Vào đầu những năm 2000, Bắc Kinh rõ ràng vẫn ở vị trí cuối cùng trong số 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ về số lượng đầu đạn hạt nhân triển khai.

    Hiện nay, họ là cường quốc hạt nhân chính thức duy nhất đều đặn liên tục gia tăng số lượng đầu đạn hạt nhân sẵn sàng cho sử dụng mặc dù vẫn thua kém xa Nga và Mỹ (theo đa số các đánh giá thì số lượng đầu đạn hạt nhân triển khai của Trung Quốc không quá 250). Xét về chủng loại phương tiện mang phóng vũ khí hạt nhân, Trung Quốc từ lâu đã rời khỏi nhóm cùng với Pháp.

    Trung Quốc đang phát triển 3 họ tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) cơ bản. Đó là các tên lửa nhiên liệu lỏng DF-5 hiện có trong trang bị mà biến thể mới nhất của nó được trang bị phần chiến đấu mang nhiều đầu đạn dẫn độc lập (MIRV), và tên lửa nhiên liệu rắn cơ động DF-31, với biến thể mang nhiều đầu đạn DF-31B đang được thử nghiệm. Đang trong quá trình đưa vào trang bị là ICBM nhiên liệu rắn nặng hơn DF-41 mà Trung Quốc sẽ phát triển theo các biến thể bố trí trong giếng phóng, cơ động mặt đất và triển khai trên đường sắt. Trung Quốc cũng đang sản xuất hàng loạt tên lửa tầm trung (từ 1.000-4.000 km) với các biến thể hạt nhân và phi hạt nhân chính xác cao.

    Theo đánh giá của Mỹ, từ năm 2015, thành phần trên biển của các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc với 4 tàu ngầm lớp Type 094 trang bị ICBM JL-2 có thể đã bước vào trực chiến. Trung Quốc cũng đang phát triển các biến thể cải tiến của các tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn (SSBN) và chúng sẽ được lắp các tên lửa có tầm xa hơn. Giống như Nga, Trung Quốc cũng đang thử nghiệm bay các đầu đạn cơ động siêu vượt âm dành cho tên lửa đường đạn.


    Các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc chỉ thiếu thành phần trên không thực sự, nhưng Trung Quốc đã chính thức xác nhận việc phát triển máy bay ném bom chiến lược. Họ đang xây dựng các cơ sở của hệ thống cảnh báo tấn công tên lửa mặt đất, chuẩn bị xây dựng thê đội vũ trụ của hệ thống cảnh báo.

    Khác với Moskva và Washington, Bắc Kinh không bị ràng buộc bởi bất kỳ hiệp ước và hạn chế nào trong việc phát triển và sản xuất các hệ thống vũ khí hạt nhân và từ chối đối thoại về vấn đề này với cớ họ đến nay vẫn tụt hậu xa so với cả hai siêu cường.

    Tuy nhiên, ở cấp độ kỹ thuật, Trung Quốc đã tạo lập được các tiền đề cho cú đột phá trong tăng cường vũ khí hạt nhân mà kết quả của nó trong thập kỷ tới có thể là việc tiến gần Nga và Mỹ về số lượng đầu đạn triển khai trên các phương tiện mang phóng chiến lược. Kiềm chế hạt nhân vẫn là nền tảng vô hình của hệ thống quan hệ quốc tế hiện hữu trong lĩnh vực an ninh, nên sự xuất hiện tiềm tàng của siêu cường thứ ba sẽ có những hậu quả nghiêm trọng nhất đối với nền chính trị thế giới. Chẳng hạnh, Mỹ sẽ buộc phải suy tính lại hệ thống các liên minh và cam kết của mình ở châu Á-Thái Bình Dương trong bối cảnh nguy cơ tổn thất không thể chấp nhận tăng mạnh một khi nổ ra xung đột không chỉ với Nga, mà cả với Trung Quốc. Những hậu quả của các thay đổi đó sẽ có tính toàn cầu và sẽ phản ánh trong cả nền chính trị thế giới, lẫn trong nền kinh tế thế giới.
    Một đặc điểm của Lực lượng tên lửa Trung Quốc (được thành lập với tư cách quân chủng độc lập trong đợt cải cách năm 2015 trên cơ sở Lực lượng pháo binh 2) là việc lực lượng này, ngoài các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, còn có một số lượng lớn (đến 1.700) tên lửa thông thường, chính xác cao tầm trung và tầm ngắn, cũng như hàng trăm tên lửa hành trình triển khai trên mặt đất. Điều đó cho phép Trung Quốc phần nhiều bù đắp được sự tụt hậu của mình về sức mạnh không quân so với Mỹ và tạo cơ hội tiêu diệt hạ tầng quân sự của kẻ thù tiềm tàng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương ở giai đoạn sớm của cuộc xung đột. Việc phát triển các hệ thống phi hạt nhân, chính xác cao đó, nâng cao khả năng đột phá hệ thống phòng thủ tên lửa đang được Trung Quốc coi là nhiệm vụ quan trọng nhất.
    Thậm chí cả ở nơi mà mô hình đuổi theo của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn tồn tại thì các kết quả cũng thật ấn tượng.

    Trung Quốc đã vượt lên gia nhập nhóm các nước dẫn đầu về xuất khẩu m,áy bay không người lái (UAV) lớp MALE (độ cao bay trung bình và thời gian bay dài).
    Các UAV này là những hệ thống vũ khí cực kỳ quan trọng đối với các cuộc chiến tranh chống nổi dậy đang diễn ra ở Cận ĐÔng, nhiều khu vực ở châu Phi và Trung Á. Đến nay, UAV Pterodactyl của công ty AVIC và CH-4 Rainbow của tập đoàn CASC của Trung Quốc đã được Saudi Arabia, Ai Cập, Algeria, Iraq, Nigeria, cũng như Kazakhstan, Uzbekistan ở không gian hậu Xô-viết mua sắm. Các UAV này rõ ràng là được làm phỏng theo MQ-1 Predator của Mỹ đang được tích cực sử dụng trong tác chiến và được mua sắm bởi các nước đồng minh của Mỹ, nhưng muốn hạn chế sự phụ thuộc vào Washington. Trung Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên có thể thách thức vị thế bá chủ của Mỹ trong phân khúc quan trọng này của thị trường vũ khí. Nga hiện thời còn chưa sản xuất được các UAV lớp này.


    Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn tồn tại những mặt yếu kém. Quan trọng nhất trong số đó, theo đánh giá của đa số chuyên gia, là sự tụt hậu trong lĩnh vực chống ngầm. Sự tụt hậu này có ý nghĩa quan trọng do Trung Quốc phụ thuộc vào thương mại đường biển và mấy năm gần đây họ đã xây dựng được thành phần trên biển có khả năng hoạt động thật sự đầu tiên của các lực lượng hạt nhân chiến lược.

    Trung Quốc hiện đang tư duy lại về mình trước hết như một cường quốc biển, chứ không phải cường quốc lục địa. Trên lục địa, sau khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc không có kẻ thù tiềm tàng đáng gờm. Xu hướng liên tục cắt giảm lục quân Trung Quốc được quan sát từ nửa cuối thập niên 1980, khi diễn ra việc bình thường hóa quan hệ Xô-Trung.

    Vươn lên đầu là hải quân với nhiệm vụ kép đặt ra. Một là, hải quân phải đóng vai trò chủ yếu trong việc hiện thực hóa cái gọi là chiến lược chống can thiệp - ngăn chặn sự can thiệp hiệu quả của Mỹ vào các cuộc xung đột trong khu vực, chẳng hạn xung quanh Đài Loan. Họ đặt trọng tâm vào sản xuất các loại tàu ngầm thông thường khá hiện đại, trong đó có các loại trang bị động cơ không cần không khí, ché tạo các loại tên lửa chống hạm siêu âm mới, các tên lửa đường đạn chống hạm. Điểm yếu tương đối trong lĩnh vực chống ngầm Trung Quốc đang tìm cách bù đắp bằng việc xây dựng một mạng lưới rộng lớn các sensor thủy âm đáy biển rộng lớn dọc theo toàn bộ đường bờ biển trong phạm vi chuỗi đảo thứ nhất (Quần đảo Nhật Bản - Ryukyu - Đài Loan - Philippines - Indonesia). Một ưu tiên khác là vũ khí thủy lôi.
    Trung Quốc đồng thời cũng đang xây dựng hạm đội viễn dương hùng mạnh nhằm bảo vệ lợi ích chính trị-quân sự của Trung Quốc ở các khu vực như châu Phi và Cận Đông.
    Năm 2015, Trung Quốc đã bắt tay vào xây dựng cơ sở quân sự thường trực đầu tiên ở nước ngoài là trạm tiếp vận hải quân ở Gibouti. Tổng số tàu khu trục trang bị hệ thống tên lửa phòng không tầm xa S-300FM và HQ-9H đã đóng xong và đang đóng của Trung Quốc hiện đã là gần 20 chiếc - đó là nhiều hơn số lượng tàu chiến từng được trang bị hệ thống S-300 trong Hải quân Liên Xô.
    Lực lượng đổ bộ của hải quân Trung Quốc đã vượt xa trình độ kỹ thuật và khả năng so với lực lượng đổ bộ của Liên Xô. Họ đang xây dựng hạm đội các tàu vận tải tiếp vận hải quân vạn năng cao tốc có kích thước khổng lồ (lượng giãn nước đến 50.000 tấn). Ngoài tàu sân bay Varyag của Liên Xô mà Trung Quốc đóng hoàn thiện và đặt tên là Liêu Ninh, hiện nay còn có 2 tàu sân bay đang đóng theo thiết kế cải tiến ở Đại Liên và Thượng Hải.
    Trong tương lai, Trung Quốc dự định chuyển sang đóng các tàu sân bay hạt nhân cỡ lớn “kiểu Mỹ”, được trang bị các máy phóng máy bay điện từ và chở theo ngoài các tiêm kích còn có cả máy bay chỉ huy/báo động sớm.
    Không quân Trung Quốc đang hoàn tất thử nghiệm 2 loại máy bay tiêm kích thế hệ 5 (J-20, J-31). Do đây là các máy bay tinh vi nên triển vọng chúng nhanh chóng đạt khả năng sẵn sàng chiến đấu là đáng nghi. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đầu tư nhiều kinh phí để chế tạo các biến thể mới của những tiêm kích thế hệ 4 hiện có. Ví dụ, bước phát triển tiếp theo của tiêm kích J-11B sao chép Su-27 là J-11D với khung thân cải tiến và radar với anten mạng pha chủ động đang được thử nghiệm; tăng sản lượng sản xuất tiêm kích hạng nhẹ cải tiến J-10B.
    Việc bắt đầu trang bị từ năm 2017 các máy bay vận tải hạng nặng Y-20 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với không quân Trung Quốc. Theo các nguồn tin có thể tiếp cận, Trung Quốc dự định xây dựng một lực lượng không quân vận tải chiến lược mạnh mẽ mà cùng với hải quân mạnh sẽ cho phép Trung Quốc duy trì sự hiện diện quân sự ở những khu vực xa xôi trên thế giới. Ngoài ra, máy bay vận tải hạng nặng nội địa còn bảo đảm cung cấp cho không quân Trung Quốc các máy bay tiếp dầu hiệu quả và các máy bay chuyên dụng khác (máy bay chỉ huy/báo động sớm, máy bay trinh sát điện tử...).

    Nguồn: Vasily Kashin // Gazeta,19. 9.2016.
  6. mimosalq

    mimosalq Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/04/2006
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    137
    Mạnh vậy chứ , bị hấp nữa à.
  7. oplot1_

    oplot1_ Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    04/10/2017
    Bài viết:
    654
    Đã được thích:
    72
    Hiện đại hóa hải quân Trung Quốc

    Thực trạng và xu hướng hiện đại hóa lực lượng tàu ngầm, tàu sân bay, tàu mặt nước, tàu (xuồng) và frigate, tàu bảo đảm, tàu đổ bộ và tàu chấp pháp của hải quân Trung Quốc.

    [​IMG]

    Cuối thập niên 1980, hải quân Trung Quốc đã bắt đầu chương trình hiện đại hóa quy mô lớn nhằm biến quân chủng này từ lực lượng bảo vệ vùng biển gần bờ thành một lực lượng hùng mạnh, có khả năng gây ảnh hưởng đối với toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
    Ngay từ đầu, Trung Quốc đặt trọng tâm đặc biệt không phải vào việc tăng trưởng số lượng mà là nâng cao các thông số chất lượng của đội tàu, cụ thể là trong lĩnh vực sức mạnh tiến công và khả năng hành động cơ xa đất liền Trung Quốc. Xu hướng này vẫn được duy trì đến nay.

    Chạy đua kích cỡ
    Trong thời kỳ từ năm 2010-6/2014, biên chế đội tàu của hải quân Trung Quốc đã tăng không đáng kể, từ 284 lên đến 290 tàu. Nhưng khả năng của chúng đã tăng mạnh nhờ thay thế vũ khí và thiết bị cũ bằng các mẫu thế hệ mới với tầm hoạt động lớn hơn. Các tàu hiện đại của Trung Quốc vượt trội hơn nhiều các loại từ trước đó về kích cỡ. Do đó, chúng có khả năng hoạt động ở khá xa các căn cứ hải quân, trang bị số lượng vũ khí lớn, thực hiện được nhiều nhiệm vụ chiến đấu hơn, mang theo thủy thủ đoàn đông hơn và mang thêm được dự trữ nhiên liện.

    [​IMG]
    china.cnr.cn
    Tính đến tháng 6/2014, hải quân Trung Quốc có 5 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi, 4 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn; 51 tàu ngầm điện-diesel, 12 trong số đó trang bị động cơ không cần không khí (AIP), 1 tàu sân bay, 24 tàu khu trục và tàu khu trục tên lửa, 63 frigate, frigate hạng nhẹ và frigate tên lửa, 85 tàu (xuồng) tên lửa và tuần tra, 57 tàu đổ bộ hạng trung và cỡ lớn.

    Theo các chuyên gia tình báo hải quân Mỹ, không nên đánh giá quá cao sức mạnh của hải quân Trung Quốc mặc dù có biên chế đồ sộ. Các tàu chiến Trung Quốc thường có kích thước nhỏ hơn các loại tương tự của Mỹ và theo các chuyên gia, chúng dùng để thực hiện các nhiệm vụ khu vực nhiều hơn là toàn cầu.

    Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc phát triển khá nhanh. Hiện nay, Trung Quốc đã cho thấy khả năng sản xuất tàu tuần tra, frigate, tàu đổ bộ cỡ lớn, tàu khu trục, tàu ngầm điện-diesel, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi và tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn. Trung Quốc cũng đang đóng tàu sân bay nội địa đầu tiên. Họ đang ráo riết phát triển động cơ turbine khí và các mẫu động cơ đầu tiên đã được lắp cho các tàu đổ bộ lớp Yuyu. Các chuyên gia Mỹ cho rằng, trong thập kỷ tới, Trung Quốc sẽ bắt đầu sản xuất ddoogj cơ turbine khí động cơ turbine khí cho các tàu lớn hơn.

    Trong khi đó, Trung Quốc cũng đang mua sắm một số lượng lớn vũ khí hải quân từ nước ngoài. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu các vấn đề hòa bình Stockholm SIPRI (Stockholm International Peace Research Institute), năm 2013-2014, Trung Quốc đã được cung cấp lượng vũ khí hải quân trị giá 58 triệu USD và hạm tàu trị giá 118 triệu USD. Đồng thời, cần lưu ý rằng, Trung Quốc cũng có thể đã nhận được động cơ turbine khí, vũ khí tên lửa và trang thiết bị hải quân, còn SIPRI chỉ cung cấp số liệu về tổng số động cơ và thiết bị được cung cấp, nhưng không nêu chức năng của chúng. Trung Quốc trong năm 2013-2014 đã mua các động cơ trị giá 923 triệu USD, máy móc thiết bị trị giá 280 triệu USD và vũ khí tên lửa trị giá 248 triệu USD. Cũng cần lưu ý là bản thân Trung Quốc cũng đang cung cấp cho nước ngoài vũ khí trang bị hải quân ở số lượng khá lớn: năm 2013-2014, theo SIPRI, họ đã xuất khẩu các tàu trị giá 653 triệu USD. Việc xuất khẩu vũ khí hải quân và động cơ turbine khí không được tiến hành, còn vũ khí tên lửa nói chung đã cung cấp trị giá 349 triệu USD, còn máy móc thiết bị là 34 triệu USD.

    Tàu ngầm
    Trong 14 năm qua, hải quân Trung Quốc đã tăng số lượng tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi và tàu ngầm điện-diesel sản xuất trong nước từ 1 chiếc lên đến khoảng 40 chiếc. Hiện tại, Trung Quốc có ít nhất 7 loại tàu ngầm hiện đại hoặc đang phát triển: tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi lớp Thương (Shang), tàu ngầm điện-diesel lớp Nguyên (Yuan), tàu ngầm điện-diesel lớp Tổng (Song), tàu ngầm điện-diesel lớp Lin San Liu (lớp Kilo Projekt 636 Varshavyanka của Nga), tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn (Jin), tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Type 096, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi lớp Type 095.
    [​IMG]
    Các tàu ngầm thuộc các lớp Thương, Nguyên và Tống dùng để tiêu diệt tàu mặt nước, hộ tống tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân của và các cụm tàu sân bay Trung Quốc, cũng như thu thập thông tin tình báo. Ban đầu, các tàu ngầm này được trang bị tên lửa hành trình YJ-82 có tầm bắn 20 hải lý (37 km). Dự đoán, vũ khí này sắp tới sẽ bị thay bằng tên lửa hành trình SS-N-13 có tầm bắn hơn 120 hải lý (222 km). Hoàn toàn có thể là các tàu ngầm Trung Quốc đã được trang bị vũ khí này.

    Theo các chuyên gia Mỹ, các tàu ngầm điện-diesel lớp Projekt 636 của Trung Quốc được trang bị hệ thống tên lửa tiến công Club-S tầm bắn 120 hải lý (222 km) của Nga. Nhờ hiện đại hóa, tất cả 4 lớp tàu ngầm này đều sẽ có thể thực hiện các nhiệm vụ tiêu diệt địch giống như thế.

    Có lẽ vào cuối năm 2014, một tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Type 094 (lớp Tấn) đã thực hiện chuyến ra khơi chiến đấu đầu tiên mang theo các tên lửa đường đạn hạt nhân JL-2. Hiện nay, Trung Quốc đang tích cực phát triển tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn và tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm thế hệ mới có tên tương ứng là Type 096 và JL-3. Dự đoán, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới sẽ có mức độ tàng hình cao hơn so với các tàu ngầm lớp Tấn vốn cực kỳ dễ bị tổn thương trước các trạm thủy âm của Mỹ và Nhật Bản, tầm bắn và hiệu quả chiến đấu của tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm JL-3 sẽ tăng lên so với JL-2.

    Trung Quốc cũng đang phát triển một tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi mới có tên lớp Type 095. Hiện chưa rõ các tính năng chính xác của nó, nhưng dự đoán, tính tàng hình của nó sẽ được nâng cao đáng kể.

    Trung Quốc không từ bỏ ý đồ hợp tác với Nga phát triển và sản xuất 4-6 tàu ngầm điện-diesel hiện đại có ứng dụng những thành tựu mới nhất của Nga trong lĩnh vực thủy âm, động cơ, khả năng tàng hình. Điều đó sẽ cho phép tăng mạnh năng lực của hải quân Trung Quốc và đơn giản hóa quá trình phát triển sau này các tàu ngầm ít ồn, qua đó sẽ gây khó khăn cho Hải quân Mỹ trong việc phát hiện chúng.

    Như vậy, Trung Quốc dự định có được khả năng tiêu diệt các tàu địch ở cự ly không dưới 100 hải lý (185 km) tính từ hải giới lãnh hải quốc gia. Việc trang bị các tên lửa đường đạn chống hạm DF-21D đang tạo ra mối đe dọa lớn đối với Hải quân Mỹ.

    Tàu sân bay
    Hiện nay, hải quân Trung Quốc chỉ có 1 tàu sân bay Liêu Ninh được đưa vào biên chế vào năm 2012. Nền tảng của phi đội trên tàu sân bay này là tiêm kích hạm J-15. Hiện có ít nhất 6 mẫu J-15 đang được thử nghiệm. J-15 thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2009, cất cánh từ sân bay mặt đất mô phỏng boong tàu sân bay vào năm 2010; bắt đầu thực hiện cất/hạ cánh trên tàu sân bay Liêu Ninh từ năm 2012. Tháng 9/2013, J-15 bắt đầu cất và hạ cánh lên tàu sân bay này với trọng lượng cất cánh tối đa.

    Các chuyên gia hoài nghi về khả năng của Liêu Ninh và cho rằng, nó chỉ có khả năng tham gia trợ giúp nhân đạo khi xảy ra thiên tai, hỗ trợ bằng trực thăng cho lục quân, tác chiến chống ngầm, phát hiện mục tiêu ở tầm xa, tiến hành các chiến dịch tìm/cứu và phô trương năng lực của hải quân Trung Quốc. Tuy nhiên, dự kiến đến năm 2016, Trung Quốc sẽ thành lập cụm tàu sân bay xung kích đầu tiên, qua đó tăng mạnh hiệu quả của tàu Liêu Ninh. Hiện tại, một trong những nhược điểm chính của máy bay chiến đấu Trung Quốc là bán kính hoạt động hạn chế. Tàu sân bay sẽ bù đắp phần nào điều đó. Kết quả là các lực lượng hải quân yếu hơn trong khu vực như Philippines và Việt Nam có thể đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng.

    Đối với các cụm tàu sân bay chiến đấu Mỹ ở Biển Đông, tàu Liêu Ninh không phải là mối nguy hiểm. Nhưng hiển nhiên, nó sẽ đóng góp phần mình vào việc thực hiện chiến lược chống tiếp cận/phong tỏa khu vực (A2/AD - Anti-Access/Area Denial) của Trung Quốc.

    Tàu sân bay sẽ cho phép Trung Quốc xây dựng một thứ như là hải quân viễn chinh. Khi tàu này thực hiện chuyến hành quân xa đầu tiên vào đầu năm 2014, nó được 12 tàu các loại hộ tống, trong đó có tàu ngầm và tàu đổ bộ. Điều đó có thể cho thấy, Trung Quốc đang xây dựng các phương án cụm tàu sân bay xung kích khác nhau, kể cả các phương án giống cấu trúc các cụm tàu sân bay của Hải quân Mỹ.

    Trung Quốc dự định đóng thêm 2 tàu sân bay nội địa (trong tương lai tăng lên đến 4 tàu) có lượng giãn nước lớn hơn tàu Liêu Ninh (60.000 tấn) và trang bị động lực hạt nhân. Nhưng hiện chưa rõ tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực này. Nếu như việc đóng tàu sân bay đầu tiên trong các tàu mới bắt đầu vào 2013 thì theo các chuyên gia Mỹ, tàu này sẽ đạt đến giai đoạn sẵn sàng chiến đấu ban đầu vào năm 2020.
    Tàu nổi
    Trong 14 năm qua, hải quân Trung Quốc quá hài lòng với cơ cấu đội tàu mặt nước của họ với 15 frigate và khu trục vào năm 2000 và đến 50 tàu vào năm 2014. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang tiếp tục hiện đại hóa các hạm tàu để trang bị cho chúng trước hết là các mẫu vũ khí hiện đại nhất. Ví dụ, trên các frigateа và tàu khu trục mới nhất có lắp các tên lửa chống hạm Nga P-270 Moskit-E (tầm bắn 130 hải lý/241 km) và tên lửa chống hạm Trung Quốc YJ-62 (150 hải lý/278 km), YJ-83 (95 hải lý/176 km) và YJ-8A (65 hải lý/120 km). Dự kiến, các tàu khu trục mới nhất của Trung Quốc lớp Lỗ Dương III (Luyang III) sẽ được trang bị tên lửa chống hạm tầm xa phóng từ bệ phóng thẳng đứng.

    Thấy rõ phòng không trên biển là điểm yếu truyền thống của tàu chiến Trung Quốc, hải quân Trung Quốc đã có những bước đi mạnh nhằm tăng cường năng lực phòng không. Hiện nay, các tàu chiến Trung Quốc có khả năng độc lập bảo đảm phòng không điểm và phòng không khu vực ở xa lực lượng lục quân. Trong thành phần các vũ khí phòng không trên biển của hải quân Trung Quốc có các hệ thống tên lửa phòng không của Nga Rif-M (tầm bắn 80 hải lý/150 km) và Shtil (20 hải lý/37 km), cũng như các hệ thống tên lửa phòng không Trung Quốc HHQ-9 (55 hải lý/102 km) và HHQ-16 (40 hải lý/74 km). Dự đoán, biến thể mới của tàu khu trục lớp Lỗ Dương III sẽ được trang bị hệ thống HHQ-9 nâng cấp với tầm bắn xa hơn.

    Hiện tại, các tàu chiến Trung Quốc chưa có tên lửa hành trình có thể tiêu diệt mục tiêu mặt đất. Nhưng dự đoán, vũ khí đó sẽ được triển khai trên các tàu khu trục Lỗ Dương III và tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa-ngư lôi lớp Type 095 trong 5-10 năm tới. Nhờ đó, các tàu chiến của hải quân Trung Quốc sẽ có thể tiêu diệt hạ tầng mặt đất của Hải quân Mỹ ở đảo Guam.

    Trung Quốc đang thiết kế tàu tuần dương có thể có tên gọi Type 055 với lượng giãn nước gần 10.000 tấn. Nó sẽ có thể mang một số lượng lớn tên lửa chống hạm, tên lửa phòng không có điều khiển, tên lửa hành trình tấn công mặt đất và trong tương lai là cả vũ khí laser và vũ khí điện từ.

    Các chuyên gia nêu lên sự phát triển về chất của các tàu chiến mặt nước Trung Quốc và trọng tâm nhấn mạnh vào tính vạn năng của chúng. Trung Quốc đặc biệt chú ý đến việc tiêu diệt mục tiêu ở ngoài tầm nhìn thẳng, đồng thời khả năng tiêu diệt máy bay cũng được nâng cao. Việc gia tăng số lượng tàu đổ bộ sẽ cho phép hải quân Trung Quốc sử dụng rộng rãi các đơn vị lính thủy đánh bộ.

    Tàu tên lửa và frigate

    Trung Quốc không chỉ chú trọng các tàu nổi cỡ lớn. Việc chuyển giao cho hải quân Trung Quốc 60 tàu tên lửa lớp Type 022 (Houbei) bắt đầu từ giữa những năm 2000, cũng như cung cấp các frigate hạng nhẹ lớp Giang Đảo (Jiangdao) kể từ năm 2012 sẽ tăng cường năng lực tiêu diệt tàu nổi của hải quân Trung Quốc.

    Tốc hạm tên lửa lớp Houbei được trang bị 8 tên lửa chống ham C-801/802/803 có thể hoạt động hiệu quả ở cách xa bờ biển Trung Quốc đến 200 hải lý (370 km). Các tàu này tạo ra sự uy hiếp khá lớn đối với Hải quân Mỹ vì chúng có tốc độ cao và độ bộc lộ thấp nên rất khó bị phát hiện.

    Việc huy động tích cực máy bay để phát hiện và tiêu diệt các tàu này bằng tên lửa chống hạm Harpoon phóng từ máy bay cũng gặp khó khăn trong bối cảnh Trung Quốc phát triển các hệ thống phòng không thế hệ 4. Những đánh giá gần đây về khả năng của các tàu chiến ven bờ lớp LCS (Littoral Combat Ship) của Mỹ đã cho thấy rằng, chúng sẽ không thể đảm đương đầy đủ vai trò “sát thủ” đối với các tàu tên lửa lớp Houbei.

    Các frigate hạng nhẹ lớp Giang Đảo được trang bị 4 tên lửa chống hạm C-803, 1 pháo 76 mm H/PJ-26, 2 pháo 30 mm H/PJ-17, 2 cụm x 3 ống phóng lôi. Trên tàu có thể triển khai một trực thăng. Khác với các tàu tên lửa lớp Houbei, các frigate hạng nhẹ lớp Giang Đảo dùng để tuần tra và trinh sát ở biển Hoa Đông và Biển Đông, chứ không phải để làm nhiệm vụ tấn công. Hiện tại, Trung đã đóng 14 tàu lớp Giang Đảo, dự kiến còn đóng thêm 15-25 chiếc nữa.

    Tàu bảo đảm

    Nhiệm vụ đấu tranh chống cướp biển ở vịnh Aden và truy tìm chiếc máy bay chở khách bị mất tích của hãng Malaysia Airlines đã đặt ra gay gắt trước hải quân Trung Quốc vấn đề bảo đảm cho các tàu chiến. Vì thế, họ đang đặc biệt chú trọng đối với tàu chở dầu. Năm 2013, họ đã đưa vào hoạt động 2 tàu chở dầu mới, đưa số lượng tàu chở dầu lên đến 7 chiếc. Tháng 6/2014, họ hạ thủy tàu chở dầu tiếp theo, thứ 8. Các chuyên gia Mỹ cho rằng, Trung Quốc sẽ đóng xong 2 tàu loại này trong 1-2 năm tới. Hoàn toàn có khả năng là Trung Quốc sẽ không dừng lại ở đó. Tổng thời gian để đóng xong một tàu chở dầu là từ 12-18 tháng.

    Tàu đổ bộ

    Kể từ năm 2006, Trung Quốc đã chuyển từ đóng các tàu đổ bộ chở tăng cỡ nhỏ dùng để xâm chiếm Đài Loan sang đóng các tàu đổ bộ đa nhiệm cỡ lớn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu khác nhau. Năm 2007-2012, hải quân Trung Quốc đã nhận được 3 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp 071 (Yuzhao). Mỗi tàu này có thể chở 500-800 quân và 15-20 xe chiến đấu các loại, đến 4 trực thăng vận tải hạng nặng Z-8. Tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp 071 thứ tư được hạ thủy ngày 22/1/2015. Dự đoán, Trung Quốc sẽ đóng thêm 2 tàu loại này.

    Trung Quốc cũng rất quan tâm phát triển lực lượng đổ bộ đường biển. Lực lượng này bao gồm Sư đoàn đổ bộ cơ giới hóa số 1, 1 lữ đoàn xe tăng lội nước (các đơn vị thuộc quyền triển khai ở đại quân khu Nam Kinh trước đây), Sư đoàn đổ bộ cơ giới hóa số 124 (triển khai ở đại quân khu Quảng Châu trước đây), Lữ đoàn 1 và Lữ đoàn 164 lính thủy đánh bộ (thuộc Hạm đội Nam Hải). Trung Quốc còn rất chú ý phát triển xe thiết giáp lội nước.

    Hạm tàu của các cơ quan chấp pháp

    Mặc dù các tàu loại này không chính thức thuộc biên chế các đơn vị hải quân Trung Quốc, nhưng chúng đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược biển của Trung Quốc khi làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi các tàu nước ngoài và uy hiếp, hăm dọa các tàu đó khi chúng vi phạm lãnh hải Trung Quốc. Bắc Kinh cho rằng, cách làm này đỡ hiếu chiến hơn là huy động tàu chiến của hải quân vào cho mục đích này. Tuy nhiên, lực lượng hải quân sẽ ở gần đó để yểm trợ cho các tàu chấp pháp.

    Đến năm 2013, Trung Quốc có 6 cơ quan chấp pháp trên biển, mỗi cơ quan đều có phân hạm đội của mình. Tháng 6/2013, các lực lượng này đã được gộp vào Hải cảnh Trung Quốc để tập trung hóa và thống nhất hành động.

    Hiện tại, các cơ quan chấp pháp Trung Quốc có gần 100 tàu biển xa và khoảng 1.000 tàu xuồng nhỏ. Chỉ một số ít tàu được lắp vũ khí bộ binh nhẹ, đại đa số tàu không trang bị vũ khí gì. Nhưng khi thiết kế, nhiều tàu đã dành riêng những khu vực riêng để dự phòng tình huống phải lắp đặt vũ khí.

    Trung Quốc cũng đang thực hiện chương trình hiện đại hóa Hải cảnh. Dự kiến, các tàu mới sẽ có kích thước lớn hơn các tàu trước đó, có thể trang bị trực thăng bay biển.


    Nguồn: Dmitri Fedyushko // VPK, N.23 (589), 24/6/2015.

  8. mimosalq

    mimosalq Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/04/2006
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    137
    Haha sản xuất nhiều để tặng mấy nước châu Phi đây mà.
  9. DLV47

    DLV47 Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/07/2018
    Bài viết:
    427
    Đã được thích:
    30
    Cổ kim xe tăng Trung Quốc: Những xe tăng đầu tiên

    Trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã vượt qua chặng đường từ người mua sắm đến nhà sản xuất và xuất khẩu tăng-giáp.

    [​IMG]

    Xe chiến đấu thiết giáp xuất hiện trên đất Trung Quốc vào nửa đầu thế kỷ XX. Trong chuỗi nội chiến và can thiệp liên tiếp nhau, xe tăng đã đóng vai trò không hề trung tâm, tuy nhiên, loại vũ khí này đã khá được chú ý ở Trung Quốc. Trong thập kỷ 1950, lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định chuyển từ mua sắm binh khí tăng-thiết giáp sang sản xuất chúng.

    Các xe tăng đã xuất hiện ở Trung Quốc trong những năm 1920, khi quân phiệt Mãn Châu Lý Trương Tác Lâm mua ở Pháp 36 xe tăng hạng nhẹ FT-17. Mười xe tăng đầu tiên được chở đến bằng một con tàu Anh dưới vỏ bọc máy kéo nông nghiệp. Bốn chiếc nữa đến Trung Quốc vào tháng 11/1925 cập cảng. Chúng đã được sử dụng trong giao chiến giữa quân đội Mãn Châu Lý và quân đội của quân phiệt Ngô Bội Phu.

    Trong khi đó, chính phủ Nam Kinh của Quốc dân đảng đã quyết định mua xe tăng cho quân đội của mình. Năm 1929, họ đã đặt mua 24 xe tăng con Vickers Carden Loyd và vào tháng 5/1929, 12 chiếc đầu tiên đã đến Trung Quốc. Chúng đã được đưa đến Tô Châu và chiến đấu tại mặt trận Lunghai. Năm 1938, việc mua sắm tăng-thiết giáp trở nên quy mô hơn.

    Thông qua phái bộ quân sự Đức, đã mua 10 xe tăng hạng nhẹ Pz. I Ausf. A và 30 xe ô tô bọc thép. Đã mua ở Italia 20 xe tăng con CV 33, mua của hãng Anh Vickers 16 xe tăng Vickers Mk. E, sau đó mua thêm 4 chiếc nữa trang bị vô tuyến điện là Vickers Mk. F. Cùng với Vickers Mk. E, đến Trung Quốc còn có 33 xe tăng lội nước Vickers Carden Loyd Model 1931.

    Những thành tựu trong lĩnh vực này đã cho phép Trung Quốc ngay từ những năm 1980 không chỉ bảo đảm được nhu cầu của mình còn xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.

    Sự giúp đỡ của nước ngoài
    Ngày 1/3/1938, hiệp định thương mại giữa Liên Xô và chính phủ Tưởng Giới Thạch được ký kết. Chính phủ Liên Xô cấp cho Trung Quốc khoản tín dụng để mua từ Liên Xô vật tư quân sự và các vật tư khác, trong đó có cả 87 xe tăng Т-26 kiểu 1933. Vào cuối thập kỷ 1930, trong quá trình các trận đánh gay go với quân Nhật, toàn bộ số binh khí kỹ thuật này cơ bản bị tổn thất.

    Lực lượng tăng-thiết giáp Trung Quốc chỉ bắt đầu hồi sinh vào năm 1943, khi Mỹ quyết định thành lập Cụm xe tăng lâm thời (Provisional Tank Group) từ tàn quân lực lượng xe tăng Trung Quốc ở Ấn Độ. Ban đầu, lực lượng này gồm cả các kíp xe tăng Mỹ, nhưng dần dần, họ bị thay thế bằng lính Trung Quốc. Người Mỹ phụ trách hoàn toàn việc hỗ trợ kỹ thuật cho đơn vị mới thành lập. Cụm này được trang bị các xe tăng do Mỹ sản xuất lấy từ kho dự trữ của Anh ở Ấn Độ.

    Trong trang bị của Cụm xe tăng lâm thời chủ yếu là các xe tăng hạng trung M4A4 Sherman và các xe tăng hạng nhẹ M3A3 Stuart, cũng như một số lượng nhỏ xe bọc thép chở quân Anh Bren Carrier và xe bọc thép chở quân bán xích Mỹ. Cụm này đã tham chiến tích cực chống quân Nhật ở Miến Điện vào năm 1944. Sau đó, Cụm xe tăng lâm thời đã trở thành nòng cốt của Tưởng Giới Thạch chiến đấu với quân cộng sản của Mao Trạch Đông trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc năm 1946-1949.

    Cũng cần nói thêm là quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã nhận được từ Liên Xô toàn bộ xe tăng-thiết giáp của Nhật mà Hồng Quân Liên Xô chiếm được từ tay đội quân Quan Đông Nhật Bản vào năm 1945. Sau thắng lợi của những người cộng sản trong cuộc nội chiến và thành lập CHND Trung Hoa, Liên Xô bắt đầu cunng cấp các xe tăng Т-34-85 và IS-2 do Liên Xô sản xuất. Trung Quốc bắt tay vào tự lực sản xuất tăng-giáp vào nửa cuối thập kỷ 1950.

    Đứa con đầu của ngành chế tạo xe tăng Trung Quốc
    Xe tăng Trung Quốc đầu tiên là xe tăng hạng trung Турe 59 (WZ120). Nó được sản xuất từ năm 1957 tại nhà máy quốc doanh số 617 ở thành phố Bao Đầu, tỉnh Nội Mông theo tài liệu kỹ thuật của Liên Xô. Sau đó, việc sản xuất còn được triển khai ở 2 nhà máy ở Nội Mông và Thượng Hải. Sản lượng xe tăng này vào đầu thập kỷ 1970 là 500-700 xe/năm, vào năm 1979 là 1.000, năm 1980 - 500, năm 1981 - 600, năm 1982 -1.200, năm 1983 - 1.500-1.700 xe. Турe 59 có thiết kế giống tăng Т-54А của Liên Xô, được sản xuất loạt từ năm 1957-1987 (sau năm 1980, sản xuất chủ yếu để xuất khẩu). Trong quãng thời gian này đã sản xuất gần 10.000 xe.

    Xe tăng có cấu tạo truyền thống với khoang lái ở phía trước, khoang chiến đấu ở giữa và khoang động cơ-truyền động ở phía sau. Lái xe ngồi phía trước, bên trái, pháo thủ và trưởng xe ngồi trong tháp, bên trái pháo, còn pháo thủ nạp đạn ngồi bên phải. Thân xe kiểu hàn, tháp bán cầu kiểu đúc với nóc tháp hàn.

    Trong tháp lắp 1 khẩu pháo 59 nòng rãnh 100 mm (pháo Liên Xô D-10TG sản xuất theo giấy phép), được ổn định theo mặt phẳng đứng. Pháo có cơ cấu hút khói để thổi lòng nòng sau phát bắn. Các góc dẫn theo phương đứng là từ -40 đến +17 độ. Để bắn pháo, kíp xe sử dụng kính ngắm thiên văn khớp nối với độ khếch đại thay đổi 3,5 và 7 lần, vốn là bản sao chép của kính ngắm Liên Xô TSh-2А-22. Cơ số đạn gồm 34 phát bắn đơn khối, 20 trong số đó nằm trong giá đạn bên phải ghế lái xe, 14 trong khoang chiến đấu. Toàn bộ đạn là loại sao chép các loại đạn đơn khối 100 mm của Liên Xô. Bên phải pháo lắp 1 súng máy 59T 7,62 mm (súng máy Liên Xô SGMT sản xuất theo giấy phép), còn 1 súng máy cùng loại được gắn cứng ở tấm giáp đầu xe. Trên nóc tháp, trên giá ở cửa nắp của pháo thủ nạp đạn gắn 1 súng máy phòng không 54 cỡ 12,7 mm (bản sao của súng máy Liên Xô DShKM).

    Trong khoang động cơ-truyền động của xe tăng bố trí động cơ diesel 12150L công suất 520 mã lực (sao chép động cơ Liên Xô V-54). Bộ truyền động cơ khí cũng có thiết kế hoàn toàn giống như ở xe tăng Т-54А. Bộ phận vận hành mỗi bên gồm 5 bánh lăn và bánh chủ động và bánh dẫn hướng. Hệ treo xoắn độc lập. Xích xe Турe 59 không du nhập từ xe Т-54А mà từ Т-55 - xích xe nhẹ hơn và có tính công nghệ hơn trong sản xuất.

    Biến thể sản xuất loạt đầu tiên được sản xuất từ năm 1957-1961. Trên biển thể thay thế nó là Туре 59-I (WZ120A) có lắp thiết bị ổn định vũ khí hai mặt phẳng, các khí tài nhìn đêm chủ động. Trong cơ số đạn của pháo 69-II (tương tự pháo D-10T2S) có bổ sung đạn xuyên giáp dưới cỡ ổn định bằng cánh đuôi АР100-2 với lõi kéo dài do hãng NORINCO (North Industries Corporation) phát triển. Vào đầu thập niên 1980, xe bắt đầu được lắp các tấm chắn sườn xe bằng vải cao su, các ống phóng lựu khói, các máy đo xa laser Туре 82 và Туре 83-II của hãng CELEC (Trung Quốc) và một máy tính đường đạn tương tự thô sơ. Tất cả hững dữ liệu cần thiết được nạp vào máy tính bằng tay nhờ bàn phím điều khiển. Máy đo xa laser được lắp trên mặt nạ pháo, bên trên nòng pháo. Tất cả các xe tăng Type 59 có trong trang bị quân đội Trung Quốc đã được nâng cấp lên chuẩn Type 59-I.

    Trên các xe tăng Турe 59-II (WZ120B), pháo đã được thay bằng pháo nòng rãnh 105 mm Type 81 với vỏ cách nhiệt. Pháo này là bản sao của pháo tăng Mỹ М68 do Israel sản xuất. Pháo này có ưu thế đáng kể về độ chính xác và uy lực phát bắn so với pháo 100 mm. Khe hở của tháp xe và bố trí thiết bị bên trong, cũng như các đặc tính kích thước-trọng lượng giống nhau của pháo đã cho phép lắp nó cho xe tăng mà không phải cải tạo nhiều. Thiết bị ổn định pháo cũng vẫn như ở Type 59-I. Hãng NORINСO đã chế tạo cho pháo mới các loại đạn xuyên giáp có cánh ổn định với khả năng xuyên mạnh hơn. Đạn xuyên giáp 105 mm với lõi bằng hợp kim uranium có khả năng xuyên giáp dày 150 mm ở tầm bắn 2.500 m với góc bắn 60 độ.

    Trong cơ số đạn có các loại đạn nổ phá và xuyên lõm sản xuất theo công nghệ Israel. Cơ số đạn pháo vẫn gồm 44 viên như ở Type 59-I. Năm 1984, pháo được trang bị vỏ cách nhiệt bằng hợp kim nhôm. Xe tăng cũng được trang bị các tấm chắn 5 ngăn bằng vải cao su, máy đo xa laser ở trên tháp con chỉ huy và các khí tài nhìn đêm không chiếu xạ do công ty Anh MEL cung cấp cho Trung Quốc. Biến thể này được đặt tên là Турe 59-IIА.

    Hiện đại hóa sâu
    Để duy trì khả năng chiến đấu của tăng Турe 59 ở mức chấp nhận được, Trung Quốc đã tiến hành hiện đại hóa sâu xe tăng Турe 59-II nhằm nâng cao khả năng sống còn bằng cách trang bị giáp phản ứng nổ và tăng hiệu quả chiến đấu bằng cách lắp hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến và các bộ phận kèm theo khác. Xét về tính năng chiến đấu, tăng cải tiến có tên Турe 59-IID (WZ120C) tương đương với xe tăng Т-55АМВ của Nga. Giáp phản ứng nổ (có tên FY) của Type-59IID là các hộp chứa thuốc nổ dẻo, được lắp bên trên tấm giáp đầu xe (13 hộp) và ở hai bên tháp xe (mỗi bên 15 hộp, 3 trong số đó có hình tam giác).

    Xe được lắp pháo mới 83А 105 mm. Hệ thống điều khiển hỏa lực có các kính ngắm thụ động kết hợp (ngày/đêm) mới của trưởng xe và pháo thủ, máy ngắm bổ trợ kiểu ống ***g, máy đo xa laser lắp liền, thiết bị ổn định pháo hai mặt phẳng cải tiến, máy tính đường đạn số. Thay cho máy ngắm tiềm vọng của pháo thủ, còn có thể lắp khí tài ảnh nhiệt. Hai bên tháp bố trí mỗi bên 4 ống phóng lựu khói, ở phần sau của tháp có giỏ chứa đồ cho kíp xe. Xe tăng được trang bị thiết bị tạo khói nhiệt. Trong khoang động cơ/truyền động lắp động cơ diesel 12 xy lanh 12150L7 được tăng công suất lên đến 580 mã lực (bằng cách tăng cấp nhiên liệu và mức độ nén). Xe có tốc độ 50 km/h trên đường nhựa, đến 25 km/h ở địa hình không đường sá, dự trữ hành trình 440 km, và khi có các thùng dầu bổ sung là đến 600 km. Xích xe dùng khớp cao su-kim loại, các trục treo xoắn được gia cường. Xe được lắp máy vô tuyến điện mới А-220А với tầm hoạt động 16 km.

    Các xe tăng Type 59-IID1 (WZ120C1) được trang bị pháo 79 105 mm với vỏ cách nhiệt bằng nhôm-composite. Pháo có thể bắn tên lửa chống tăng có điều khiển tầm bắn tối đa 5,2 km và khả năng xuyên giáp đến 700 mm. Tên lửa chống tăng được bắn qua nòng pháo giống như trên các xe tăng Nga. Ngoài các mục tiêu mặt đất thông thường, tên lửa còn có thể tiêu diệt trực thăng bay thấp. Có thể tên lửa chống tăng có điều khiển bắn từ pháo tăng đang được Trung Quốc phát triển cùng với Israel. Người ta đã tiến hành thử nghiệm trình diễn các loại tên lửa chống tăng có điều khiển đó và ở tầm 4,8 km đã tiêu diệt một bia tự hành điều khiển từ xa.

    Cũng không loại trừ việc Trung Quốc mua tên lửa bắn từ pháo tăng 9М117 Bastion do Nga sản xuất.

    Vào cuối thập kỷ 1960, hãng NORINCO đã phát triển tăng chủ lực Турe 69 (WZ121). Đây là biến thể hiện đại hóa của Туре 59. Người ta đã trù tính chỉ sử dụng các công nghệ và linh kiện của Trung Quốc. Vào đầu những năm 1970, nhà máy số 617 ở Baotou đã bắt đầu sản xuất loạt xe tăng mới. Tuy nhiên, việc hoàn thiện xe này diễn ra chậm chạp và việc sản xuất cho đến những năm 1980 được tiến hành ở số lượng hạn chế. Lần đầu tiên, Type 69 được giới thiệu tại cuộc duyệt binh ở Thượng Hải vào tháng 9/1982.

    Biến thể xuất khẩu
    Tăng Турe 69 được sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Quân đội Trung Quốc chỉ đưa vào trang bị một số ít tăng này. Khách hàng nước ngoài đầu tiên mya Type 69 là Iraq khi họ mua mấy trăm xe tăng này kể từ năm 1983. Trong 3 năm (1984-1987), Trung Quốc cung cấp cho các nước Vùng Vịnh tổng cộng 1.800-2.500 xe tăng này, phần lớn là cho Iraq. Đầu năm 1987, Thái Lan đã đặt mua của Trung Quốc một lượng lớn vũ khí trang bị, trong đó có 50 tăng Турe 69. Những xe tăng đầu tiên đã được chuyển giao cho quân đội Thái Lan vào năm 1988 và được đặt tên là Type 30 МВТ. Sri Lanka cũng mua một số xe tăng này. Năm 1998, Bangladeh nhận được 232 Type 69.

    [​IMG]
    Pakistan trong những năm 1980 cũng đã mua 250 chiếc Турe 69, còn vào năm 1993 đã bắt đầu sản xuất theo giấy phép tăng này tại nhà máy của hãng Heavy Industries Taxila (một phần các linh kiện do Trung Quốc cung cấp). Các xe tăng do Pakista sản xuất được đặt tên Type 69-IIMP.

    Cấu trúc thân và tháp xe, động cơ và hệ thống truyền động, nhiều bộ phận và tổng thành khác, ví dụ như súng máy, cửa cửa nắp của các thành viên kíp xe... so với Турe 59 hầu như không có thay đổi gì. Khác biệt chủ yếu là những cải tiến ở hệ thống điều khiển hỏa lực và pháo. Xe tăng được trang bị pháo nòng trơn mới 69 100 mm do Trung Quốc phát triển trên cơ sở pháo nòng rãnh 59 và nghiên cứu pháo Liên Xô U-5TS 115 mm của tăng Liên Xô Т-62 mà Trung Quốc chiếm giữ được trong cuộc xung đột ở đảo Damansky vào năm 1968. Pháo mới có nòng dài hơn và bộ hút khói cấu trúc độc đáo được dịch chuyển gần hơn phía giữa nòng.

    Cơ số đạn (44 viên) gồm các phát bắn đơn khối có cánh ổn định: đạn phá-mảnh, xuyên lõm, xuyên giáp dưới cỡ và đạn chứa các phần tử sát thương tiền chế. Tầm bắn hiệu quả là đến 1.000 m. Các phát bắn được để trên các giá đạn trong khoang chiến đấu và khoang lái.

    Trên Турe 69 lắp bộ ổn định pháo hai mặt phẳng, cho phép bắn ngắm trong hành tiến. Được phát triển theo công nghệ Liên Xô có sử dụng linh kiện đèn điện tử chân không, thiết bị ổn định tại thời điểm được chế tạo đã thua kém xa về tính năng các mẫu nước ngoài. Hệ thống điều khiển hỏa lực của xe tăng có một máy đo xa laser Турe 82 của hãng CELEC (Trung Quốc) lắp trong vỏ hình hộp bên trên tấm giáp gắn pháo. Nó cho phép đo cự ly trong khoảng 300-3.000 m với độ chính xác đến 10 m. Một máy tính đường đạn tương tự tự động nhận thông tin về cự ly, cũng như có các sensor góc nghiêng của các chốt nòng pháo, góc ngẩng/chúi của pháo (góc tầm). Dữ liệu về nhiệt độ không khí bên ngoài và nhiệt độ đạn được nạp bằng tay. Xe được trang bị các khí tài nhìn đêm kiểu chủ động sao chép của Liên Xô. Máy ngắm tiềm vọng của pháo thủ được lắp ở vị trí nơi lắp thiết bị quan sát có các kênh ban ngày và ban đêm trên tăng Type 59.

    Xe tăng được trang bị máy vô tuyến điện 889 có tầm liên lạc đến 25 km và thiết bị đàm thoại trên xe tăng 883 chế tạo theo mẫu của Liên Xô, hệ thống dập lửa bán tự động ППО điều khiển từ khoang chiến đấu và thiết bị tạo khói nhiệt.

    Туре 69-I có thiết bị hồng ngoại cải tiến và hệ thống phòng hộ NBC tập thể, Type 69-II được trang bị pháo nòng rãnh 100 mm 59-II, hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến ISFCS-212 do hãng NORINCO phát triển. Hệ thống điều khiển hỏa lực gồm máy ngắm có ổn định cho phép thủ TGS-A, khí tài quan sát và ngắm bắn của trưởng xe, máy tính đường đạn điện tử, hệ thống các sensor thông tin đầu vào (tốc độ gió cạnh, nhiệt độ không khí, độ nghiêng trục chốt nòng pháo), máy đo xa laser, thiết bị ổn định pháo hai mặt phẳng và khối điều khiển. Máy đo xa laser TLR1A lắp trên nòng pháo hoạt động trên cơ sở Neodym. Trên xe tăng còn lắp một máy ngắm đêm dành cho pháo thủ. Một đèn chiếu hồng ngoại được sử dụng để chiếu xạ mục tiêu.

    Hệ thống điều khiển hỏa lực ISFCS-212 cho phép tiêu diệt các mục tiêu cố định và di động cả ban ngày lẫn ban đêm bằng phát đạn đầu với xác suất 50-55%. Các mục tiêu thông thường bị tiêu diệt bằng hỏa lực pháo tăng trong vòng không quá 6 s. Xe được trang bị hệ thống dập lửa bán tự động và các tấm chắn sườn xe 5 ngăn để chống đạn xuyên lõm.

    Type 79
    Type 79 (WZ121D) là biến thể hiện đại hóa sâu của tăng Type 69-II. Ban đầu, tăng có tên gọi Type 69-III. Xe được lắp pháo 105 mm Type 83 (L7A3) có bộ hút khói và vỏ cách nhiệt, được ổn định hai mặt phẳng. Cơ số đạn gồm các phát bắn đơn khối thuộc mấy loại. Tất cả các loại đạn đều được sản xuất ở Trung Quốc theo giấy phép. Trung Quốc cũng đã phát triển các loại đạn vỏ cháy một phần. Pháo có tốc độ bắn đến 10 phát/phút.

    Hệ thống điều khiển hỏa lực ISCFS-212 (Type 37A), gồm máy đo xa laser và máy tính đường đạn với các sensor đo gió, góc ngẩng của pháo, góc nghiêng của trục chốt pháo, nhiệt độ không khí và nhiệt độ đạn. Dữ liệu từ các sensor được nạp bằng tay vào máy tính. Hệ thống điều khiển hỏa lực được phát triển với sự hỗ trợ của các chuyên gia của hãng Marconi của Anh. Pháo thủ có một máy ngắm tiềm vọng với trường nhìn ổn định độc lập, một kênh ban ngày có độ khuếch đại bằng 1 và kênh thụ động nhìn đêm dùng bộ biến đổi quang-điện tử thế hệ 2.

    So với Type 69, hình dáng tháp xe có thay đổi chút ít, có lắp các súng phóng lựu khói 4 nòng 76 mm và các hòm dụng cụ. Súng máy bắn về phía trước bị loại bỏ. Xe được lắp các tấm chắn sườn xe, sử dụng xích xe với khớp cao su kim loại.

    Động cơ xe tăng là động cơ diesel kiểu chữ V 12 xy lanh làm mát bằng chất lỏng 12150L-7BW công suất 730 mã lực ở tốc độ 2.000 vòng quay/phút. Bộ truyền động cơ khí có cấu tạo tương tự bộ truyền động của tăng Type 59. Xe có trọng lượng chiến đấu 37,5 tấn, tốc độ tối đa 50 km/h. Trung Quốc đã sản xuất gần 800 xe Type 79 (có nguồn nói 519 xe).

    Cần lưu ý là đến cuối thập niên 1980, quân đội Trung Quốc đã nhận vào trang bị gần 200 xe tăng Type 69 và 400-500 Type 79.

    Nguồn: Mikhail Baryatinsky / VPK, N.34 (502), 4.9.2013.
  10. mimosalq

    mimosalq Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/04/2006
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    137
    Thử với đô vật Mỹ không được nên xoay qua đấu với con bò.
    https://video.vnexpress.net/tin-tuc...nga-con-bo-400-kg-trong-vai-phut-3850580.html

    Mỹ khùng đi buôn bán với thằng bá vơ.

    Huawei có quan hệ kinh doanh mật thiết với các công ty Mỹ. Nhập khẩu bán dẫn của công ty này gấp khoảng 6 lần so với ZTE, bao gồm 1,8 tỷ USD từ Qualcomm và 700 triệu USD từ Intel. Nếu chính quyền Trump áp đặt lệnh cấm kiểu ZTE đối với Huawei, các công ty Mỹ cũng sẽ bị ảnh hưởng.
    Lần cập nhật cuối: 07/12/2018

Chia sẻ trang này