1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tôn giáo và dân tộc (không bàn chuyện thời sự - xem thông báo của Mod trang 47)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 01/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Lịch sử lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam.

    Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, nên việc lợi dụng tôn giáo để thực hiện mưu đồ chính trị được đặc biệt quan tâm. Do điều kiện lịch sử, mỗi tôn giáo bị lợi dụng ở mức độ khác nhau, trong đó giáo hội Công giáo (đạo Thiên Chúa) bị các thế lực thực dân cũ và mới lợi dụng nhiều nhất.

    Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau, phương thức lợi dụng tôn giáo cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu chính trị trong giai đoạn đó.

    a. Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến trước năm 1945.

    Ðạo Thiên Chúa truyền vào nước ta từ thế kỷ thứ XVI trong bối cảnh lịch sử nội chiến Nam-Bắc triều phân tranh Trịnh Nguyễn. Lúc đầu các giáo sĩ Hà Lan và Bồ Ðào Nha đã lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn phong kiến Việt Nam lúc đó để đạt mục đích truyền giáo cụ thể: người Hà Lan thì bán vũ khí cho chúa Nguyễn ở đằng trong, người Bồ thì bán vũ khí cho chúa Trịnh ở đằng ngoài để đánh nhau. Như vậy ngay từ đầu truyền giáo của các giáo sĩ đã gắn với chính trị; can thiệp vào nội tình chính trị của nước ta, phục vụ cho lợi ích thương mại của các quốc gia họ.

    Ðộng cơ phục vụ lợi ích "chính quốc" được thể hiện rõ nét hơn thông qua hoạt động của các giáo sĩ người Pháp trong tổ chức truyền giáo gọi là "Hội thừa sai Pa ri", bắt đầu từ năm 1664.

    Ngay từ khi mới ra đời, hội thừa sai Pa ri đã được chính phủ Pháp sử dụng vào việc bành trướng thế lực thực dân của mình ở Viễn Ðông, đặc biệt là Việt Nam. Mục đích lợi dụng truyền giáo để phục vụ công cuộc thực dân được nhấn mạnh trong bản điều trần của Hội gửi quốc hội Pháp năm 1790 như sau:


    Mục đích tôn chỉ đó đã được các giáo sĩ thừa sai quán triệt trong suốt quá trình truyền giáo ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất (ở thời kỳ 1664-1802) là các giám mục Parancois - Pan Luy, Lam-be-de-lamốt, P. Poivre, và đặc biệt là giám mục Adran - Bá Ða Lộc.

    Pan Luy muốn thông qua hoạt động bạo lực của Pháp để truyền giáo, khuyến khích Công ty Ðông ấn dùng bạo lực, cái mà ông ta gọi là "...một phương án vinh quang để đưa dân mọi rợ trở lại đạo thánh và qua đó mà thánh hóa việc thương mại của mình, vừa để mở mang giáo hội vừa làm giàu cho nước Pháp".

    Còn P PoivRe, một thương nhân kiêm giáo sĩ, năm 1740 đã gửi về nước một bản báo cáo tỉ mỉ về hoàn cảnh địa lý, sản xuất, thuế khóa và phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo ở đằng trong.

    Tuy nhiên, hoạt động của hai vị giám mục nói trên mới chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp tin tức tình báo về đất nước chúng ta, hoặc khuyến khích thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sự kiện có tính chất điển hình hơn cả là hoạt động của Bá Ða Lộc (người được giới thực dân đánh giá như "một bậc tiên khởi" của quá trình xâm lược Việt Nam, kẻ trực tiếp làm môi giới cho Nguyễn ánh ký với Pháp Hiệp Ước Véc Xây (1787) với thỏa thuận: Pháp giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để giành lại Vương triều, Nguyễn Ánh cắt cho Pháp Côn đảo và Hội an (Quảng nam, Ðà nẵng). Với sự giúp đỡ của Bá Ða Lộc, Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây sơn, lên ngôi năm 1802, và từ đó Việt Nam chính thức nằm trong sự ảnh hưởng của Pháp.

    Từ những dẫn chứng trên cho phép ta kết luận:

    Hoạt động của ba vị giám mục nói riêng, của các giáo sĩ thừa sai Pa-ri nói chung trong giai đoạn (1664-1802), không còn dừng lại ở mức độ phục vụ cho lợi ích kinh tế thương mại của các thế lực thực dân như trước.

    Hoạt động của các giáo sĩ đã đạt tới mức độ là tạo ra nền tảng cho công cuộc thực dân của Pháp ở nước ta. Hậu quả mà dân tộc ta phải gánh là: Về mặt pháp lý, một phần lãnh thổ Việt Nam đã thuộc quyền của thực dân Pháp.

    Ðánh giá về vai trò của Hội thừa sai Pa-ri đối với quá trình xâm lược Việt Nam, vua Napôlêon I của Pháp đã nhận định:



    Bước sang thế kỷ XIX, hoạt động cấu kết giữa các giáo sĩ với thực dân Pháp nhằm đạt mục đích truyền giáo và xâm lược cũng đậm nét. Có thể nói hoạt động của các giáo sĩ thế kỷ XIX là một bộ phận hợp thành trong công cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa thực dân và truyền giáo trong thời kỳ này được phản ánh qua một số hoạt động và sự kiện chủ yếu sau đây:

    * Các giáo sĩ tích cực thu thập tin tức tình báo phục vụ cho việc can thiệp bằng quân sự của Pháp vào Việt Nam.

    Giám mục Pơ Lô Ranh và linh mục Húc cai quản địa phận Huế không những tích cực vận động triều đình Napôlêôn III xúc tiến việc xâm lược bằng quân sự với nước ta, mà còn trực tiếp dẫn đường cho tàu chiến Pháp trong quá trình do thám và tiến công nước ta.

    * Lợi dụng khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc ta, cụ thể là: Mâu thuẫn nhân dân ta với các vua triều Nguyễn (do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Nguyễn đưa lại); mâu thuẫn giữa quần chúng giáo dân theo đạo Thiên Chúa với người không theo tôn giáo, hoặc tín đồ của tôn giáo khác.

    Ðặc biệt là mâu thuẫn giữa quần chúng giáo dân với nhà Nguyễn, do những sai lầm có tính chất phương pháp trong việc cấm đạo, sát đạo của các triều đại phong kiến thời Nguyễn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, tạo cơ hội cho các giáo sĩ tập hợp giáo dân chống lại triều đình, làm hậu thuẫn cho công cuộc xâm lăng của Pháp.

    Ðiển hình trong lĩnh vực này là vụ giáo sĩ Marchand (tức cố Dụ) tập hợp giáo dân vùng Gia Ðịnh giúp Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mệnh, vụ hai giáo sĩ Lêpêbve và Ducloc kích động dân Công giáo nổi loạn thời vua Thiệu Trị; vụ hai Giám Mục Sampedro, Hermosilla (tức cố Xuyên và cố Liêm) tổ chức giáo dân ở một số địa phận Nam định, Hải dương, Hưng yên, với mục đích rước Lê Duy Minh từ Ma Cao (Trung quốc) về nước để lật đổ triều Nguyễn.

    Hoạt động công cuộc phục vụ thực dân của các giáo sĩ trong quá trình truyền giáo vào nước ta - thời kỳ từ năm 1802 đến khi nhà Nguyễn ký hòa ước nhâm tuất năm 1862 còn được phản ánh một cách đầy đủ, trực tiếp và toàn diện thông qua nội dung, tính chất và mức độ nghiêm khắc trong các "đạo dụ" (sắc chỉ) của các triều đại phong kiến đương thời. Cả thảy có 13 đạo dụ, trong đó mức độ "cấm đạo" tăng dần theo tính chất nghiêm trọng của tình hình. Chẳng hạn:

    - Thời Minh Mệnh, năm 1836 trước sự gia tăng hoạt động của các giáo sĩ lại trùng hợp thường xuyên xuất hiện của các tàu chiến Pháp trong vùng lãnh hải của ta, đặc biệt là những vụ lộn xộn về chính trị trong triều đình sau vụ biến Lê Văn Khôi, Minh Mệnh lập tức ra đạo dụ qui định "xử tội chém" đối với các giáo sĩ thừa sai có hành vi trinh thám dò la tin tức của ta.

    - Thời Thiệu Trị, năm 1847, sau khi phát giác vụ Vũ Văn Ðiền tín đồ Thiên Chúa Giáo tiết lộ bí mật quân cơ cho các tàu chiến Pháp trong sự kiện thủy chiến Ðà Nẵng (1847), Thiệu trị ra đạo dụ cấm các quần thần của nhà vua theo đạo.

    - Thời Tự Ðức, ông tuyên bố tiếp tục theo đường lối cũ của cha ông đối với đạo Giatô (Thiên Chúa), song ông đã không qui định hình phạt một cách cụ thể hơn.

    Cụ thể là: Các giáo sĩ Tây dương mà phạm luật thì bị quăng xuống biển, các linh mục người Việt phạm luật thì bị xử tử, giáo dân vi phạm thì bị thích chữ vào mặt...

    Rồi từ năm 1848, do tình hình trong nước xảy ra nhiều biến cố phức tạp nên Tự Ðức liên tiếp ra các đạo dụ khác để ngăn cản, hạn chế, trừng trị các hoạt động của giáo sĩ và giáo dân có ảnh hưởng xấu tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc.

    Như vậy, sự gia tăng về số lượng và mức độ của hình phạt được qui định trong các đạo dụ cấm đạo, sát đạo của nhà Nguyễn hoàn toàn trùng hợp với sự gia tăng những hoạt động lợi dụng truyền giáo phục vụ công cuộc xâm lược của các giáo sĩ. Sự trùng hợp đó cho phép ta kết luận: Chính sách cấm đạo, sát đạo của các vua nhà Nguyễn là hậu quả tất yếu do nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc, nảy sinh từ chính sách thực dân - Gia tô của Pháp đối với nước ta thời đó. Ðiều đáng tiếc ở đây là các vua nhà Nguyễn đã phạm sai lầm về phương pháp. Hậu quả của sai lầm đó như chúng ta đã biết: nó tạo ra cái cớ để bọn thực dân dụng danh nghĩa "bảo vệ những người đồng đạo" để tiến hành xâm lược nước ta bằng quân sự.

    Sự cộng tác của giáo hội với thực dân Pháp ở Việt Nam trong thế kỷ XIX còn thể hiện ở chỗ: Giáo hội là chỗ dựa cho chính sách ngu dân về văn hóa của bọn thực dân. Về thực chất đây là một bộ phận của chính sách cai trị thuộc địa theo lối đồng hóa nền văn hóa dân tộc. Mục tiêu của sự đồng hóa này là "Thiên Chúa giáo hóa" Việt Nam để đạt mục đích xâm lược và cai trị dân. Bằng cách sử dụng giáo sĩ vào công việc quản lý nhà nước, loại trừ ảnh hưởng của Nho giáo (hệ tư tưởng chính thống trong nền văn hóa Việt Nam dưới thời phong kiến). Nhiều giám mục đã đề nghị thực dân đàn áp đội ngũ sĩ phu "Văn Thân" của Việt nam, vì theo họ: "Bọn Văn Thân rất có ảnh hưởng, họ công tiến lớn và một khi được làm quan là thiên hạ kính trọng họ, vì vậy nhất thiết phải thanh toán bọn họ đi..., bởi vì họ quá yêu nước không thể nào chấp thuận sự cai trị của chúng ta. Hơn nữa, chẳng bao giờ một người Văn Thân chịu theo đạo Ki-Tô!" (theo lời kể của toàn quyền Lan Ít xăng).

    Ðối với quần chúng, các giám mục Pháp chủ chương tôn giáo hóa bằng nhiều biện pháp khác nhau: Làm cho họ thấy rõ lợi ích của việc theo đạo; hoặc bằng cách nào đó để họ thấy được vấn đề là nếu đã theo đạo mà bỏ đạo thì không an toàn về cuộc sống; kể cả dụ dỗ và cưỡng bức theo đạo.

    Ðối với giáo dân, giáo hội cấm không cho họ tiếp xúc với xã hội người lương, các tài liệu sách báo có tư tưởng yêu nước, cách mạng. Việc làm này phục vụ cho chính sách chia rẽ lương - giáo, biến các làng giáo dân, khu vực giáo dân thành những cứ địa riêng để cha cố dễ bề quản lý hoặc huy động vào các mục đích thực dân khi cần thiết.

    Về phía thực dân Pháp, trong quá trình thực hiện chính sách ngu dân của mình ở Việt Nam, chính phủ Pháp đã tiến hành nhiều biện pháp để ngăn cản việc truyền chức linh mục, giám mục cho giáo sĩ người Việt Nam. Họ sợ rằng nếu các giáo sĩ Việt Nam có tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc nắm giữ các chức vụ quan trọng trong giáo hội thì sẽ tác động trực tiếp tới giáo dân và làm cho giáo dân thức tỉnh chống lại kẻ xâm lược. Trong nội bộ giáo hội, các giáo sĩ nước ngoài cũng tìm cách ngăn cản xu hướng tiến bộä của một số giáo sĩ người Việt, ngăn cản luồng tư tưởng đòi trả giáo hội Việt Nam cho người Việt Nam.

    Trên thực tế, trong chừng mực nhất định, thực dân Pháp đã thực hiện được âm mưu tách cộng đồng giáo dân của Ðạo Thiên Chúa ra khỏi cộng đồng dân tộc, bằng cách tạo ra trong giáo dân sự mặc cảm, sự ngộ nhận nguy hiểm rằng giữa đức tin và nghĩa vụ công dân có một sự mâu thuẫn không thể dung hòa, mà sự lựa chọn theo đúng ý Chúa là từ bỏ dân tộc để giữ lấy đức tin. Hướng giáo dân vào cuộc đấu tranh chống lại chính dân tộc mình để bảo vệ đức tin - vào cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ và chủ thuyết khác nhau. Vì thế khi Ðảng C ộng Sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thì bọn thực dân và những người cầm đầu giáo hội lại tung ra các luận điểm về "mối hiểm họa c ộng sản", "mâu thuẫn c ộng sản - công giáo" "vô thần - hữu thần" để biện hộ cho hành vi cướp nước và bán nước, chống lại các phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ và hòa bình của nhân dân ta.

    b- Giai đoạn 1945-1954.

    Ngày 02/9/1945, Nước Việt Nam Dân Chủ C ộng Hòa được thành lập, sự kiện đó đã mở ra giáo hội Việt Nam một cơ hội: Từ bỏ con đường cũ, con đường hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân, phục vụ cho những mục đích xâm lược và cai trị của chúng, để vươn lên tự khẳng định mình, hòa nhập vào trong lòng dân tộc. Ða số giáo dân và giáo sĩ người Việt yêu nước đã hân hoan đón chào độc lập, hăng hài góp phần nhỏ bé của mình của mình vào sự nghiệp chung của đất nước.

    Song, phần lớn các giáo sĩ ngoại quốc vẫn giữ thái độ im lặng, chờ thời, hoặc hoạt động chống phá ngầm. Và đúng như bản chất phản cách mạng của chúng, khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam, bọn phản-động trong giáo hội lại tiếp tục phản bội dân tộc Việt Nam. Tính chất chính trị ********* của giáo hội ở thời kỳ này biểu hiện chỗ: Lợi dụng các sắc chỉ chống C ộng sản của tòa thánh để chống lại Chính phủ ta sử dụng những khẩu hiệu như: "Nguy cơ đỏ", "Hãy tiêu diệt C ộng sản để làm vinh danh Chúa"... Nhằm mục đích chia rẽ đối lập giữa đồng bào Công giáo với Chính phủ với đồng bào không theo tôn giáo.

    Tinh thần đó được bộc lộ một cách công khai trong thư chung của Hội đồng giám mục Việt Nam năm 1951:


    Có thể khái quát thủ đoạn lợi dụng giáo hội Công giáo của thực dân Pháp vào mục đích chống lại cuộc kháng chiến của dân tộc ta như sau:

    - Tuyên truyền về "hiểm họa c ộng sản" để lôi kéo mê hoặc, xô đẩy tín đồ vào cuộc phản chiến chống cộng sản, bất hợp tác với chính phủ vì chính phủ là C ộng sản.

    - Gán cho C ộng sản tất cả những gi xấu xa nhất.

    - Ðưa ra những triết lý biện minh cho chính sách thực dân, như: "Chính sách thực dân dưới con mắt của các nhà luật học và lý luận học vẫn là một việc hợp lý, vừa giúp ích cho nhân loại vừa là hành vi nhân đạo".

    - Tuyên truyền về "C ộng sản đàn áp giáo hội", thúc ép giáo dân di cư vào nam (năm 1954).

    - Bên cạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo hội còn tiến hành thành lập các tổ chức, Ðảng phái hoạt động để "đoàn ngũ hóa" giáo dân, biến giáo dân thành tai mắt và thành lũy để chống lại kháng chiến, như: "Ðạo Binh đức mẹ", Ðạo Binh Xanh". Hiệp hội hiến sỹ đức mẹ bảo vệ nhà thờ...".

    - Phạt vạ những giáo sĩ và giáo dân tham gia ủng hộ giúp đỡ kháng chiến.

    - Nguy hiểm nhất là chúng tiến hành vũ trang cho dân công giáo. Thực tế cho thấy vào năm 1950, hầu hết các xứ đạo đều được vũ trang. Lính công giáo được thôi thúc bởi tín điều chống c ộng sản nên hành động rất điên cuồng. Sử sách còn ghi lại những cuộc hành quân càn quét và những hành động tàn sát dã man của lính công giáo với người lương, đặc biệt là với "quân của kháng chiến". Với một đội quân khát máu bởi bị mê hoặc vào chiêu bài chống c ộng của bọn thực dân, lính công giáo đã thực sự trở thành cái mà đế quốc Pháp và bọn đội lốt tôn giáo cần "để nói chuyện với chính phủ c ộng sản" như giám mục Lê hữu Từ đã từng tuyên bố.

    - Với những thủ đoạn nói trên, thực dân Pháp và bọn phản-động trong giáo hội lại một lần nữa đẩy quần chúng giáo dân vào hoàn cảnh khó xử... muốn giữ đạo thì phải từ bỏ kháng chiến, từ bỏ dân tộc... nên thực tế chúng đã thực hiện được một phần mục đích chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc là một yếu tố đóng vai trò to lớn với sự thành công của cách mạng.

    c- Giai đoạn 1954-1975.

    Trong những năm 1954-1955 các thế lực ********* đã kêu gọi người Công giáo di cư vào miền nam nhằm thực hiện ý đồ xây dựng một chính quyền mà trong đó người Công giáo chiếm đa số để đối đầu với C ộng sản.

    Thời kỳ này đế quốc Mỹ đã thi hành chính sách thực dân kiều mới ở Miền Nam Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm mà nòng cốt là những người Công giáo: 50% lính trong quân đội n-gụy là người Công giáo, 40% tướng tá n-gụy là Công giáo. Mỹ n-gụy đồng loạt dựng lên các tổ chức: "Liên đoàn sĩ quan Công giáo khu thủ đô sài gòn", "Thanh niên công giáo tiến hành", "thanh niên thôn quê Công giáo", "Thanh niên cộng hòa" do chính các linh mục và giám mục chỉ huy hoặc làm cố vấn, các tổ chức trên được sử dụng nhiều trong chiến dịch "tố c ộng", "diệt c ộng".

    - Mỹ-n-gụy đã sử dụng thủ đoạn kích động tư tưởng kỳ thị tôn giáo giữa đạo Công giáo với đạo Phật: đưa đạo Công giáo lên hàng quốc đạo, thẳng tay đàn áp những giáo tín đồ có tư tưởng tiến bộ.

    - Thấy việc lợi dụng đạo Công giáo chống phá cách mạng vẫn chưa đủ, Mỹ-n-gụy ra sức lợi dụng đạo Hòa Hảo và đạo Cao đài, đồng thời Mỹ còn hậu thuẫn cho việc phát triển đạo Tin Lành ở miền Nam, xây dựng và gắn kết lực lượng Fulro ở vùng Tây nguyên với đạo Tin lành.

    - Từ năm 1974 trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nguy cơ sụp đổ của chính quyền n-gụy ngày càng trầm trọng, Mỹ đã chuyển hướng lợi dụng tôn giáo theo một chiều hướng mới để phục vụ cho mục đích chống phá cách mạng thời kỳ hậu chiến tranh cụ thể là:

    - Ðối với đạo Công giáo: không trực tiếp chống c ộng sản bằng vũ lực mà chống phá mạnh mẽ trong lĩnh vực chính trị tư tưởng. Ngăn chặn các chức sắc tiếp xúc với những luồng tư tưởng tiến bộ, cô lập các chức sắc có tư tưởng tiến bộ, kích động các tín đồ xuống đường biểu tình phản đối các chính sách của chính quyền cách mạng.

    - Ðối với đạo Tin Lành: Tiếp tục củng cố các tổ chức ở vùng dân tộc ít người, gắn kết tin lành với FULRO xây dựng thêm nhiều cơ sở phản-động trong đao tin lành để đối phó với cách mạng sau khi miền Nam được giải phóng.

    - Ðối với đạo Cao đài và Hòa hảo: Ðế quốc Mỹ đã giúp đỡ các tổ chức tôn giáo xây dựng lực lượng vũ trang nhằm mục đích chống phá cách mạng trên cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự.

    - Ðối với đạo Phật: Ðế quốc Mỹ nhận định đối với Phật giáo ở Việt nam trước mắt chưa thể lợi dụng được nhưng sẽ lợi dụng bằng cách dùng các tổ chức Phật giáo ở ngoài nước để tác động vào một số chức sắc ở Việt Nam, (tổ chức mà Mỹ chuyên lợi dụng là "tổ chức thân hữu Phật tử thế giới").
  2. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Đồng chí fddinh này kiếm mấy bài hay hay bên lsvn.in đem về à?
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Không, cái trên nhà em mò mẫm cắt cúp của web chống +:))
  4. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Sao không loi các bài của Mr. Tèo về nhỉ. Thời tiết năm nay tốt hơn rồi mà.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Thôi bác Xồm ạ, nếu Mr. Tèo hay bạn nào muốn làm vậy thì nhà em hoan nghênh.
  6. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Spam luôn: Chắc anh em ta nhắn cụ Tèo về đây làm nick NewGods rồi post, nhỉ.
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Em gửi méss cho Mr. Tèo rồi bác Xồm ạ.
  8. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Hồng Y Francis Spellman và chiến tranh Việt Nam

    Soldiers Never Lose
    Người dân Mỹ biết taị sao họ tham chiến ở Pearl Harbor năm 1941, ở Triều Tiên năm 1950. Nhưng hình như họ không hiểu tại sao xứ họ lún vào “vũng lầy” chiến tranh Việt Nam từ 1954 đến 1975. Từ chiến trưòng Việt Nam xa xôi, quan tài liên tiếp trở về. Khi nốt nhạc chiêu hồn còn đang lơ lửng, bên nấm mồ phủ hoa và lá cờ đầy kịch tính, gia đình tử sĩ giật mình “Sự thật ở đâu? Ngưòi anh hùng không toàn thây kia nằm xuống cho ai?” Tướng McArthur nói “Old soldiers never die; they just fade away/Ngưòi lính già không chết; họ chỉ nhạt dần đi”. Có lẽ phải thêm “Soldiers never lose, but are betrayed/ Người lính không bao giờ thua trận/họ chỉ bị phản bội”.

    Cựu quân nhân Việt Mỹ giống nhau một điểm: ồn ào nhận thua trận mà quên rằng:
    Chỉ cấp lãnh đạo mới thua trận!
    Chỉ cấp lãnh đạo mới phản bội!
    Nhưng cấp lãnh đạo chiến tranh Việt Nam là ai?

    Lúc người dân Mỹ khám phá ra rằng khi chấp nhận chiến tranh thì phải chấp nhận hy sinh nhưng Hồng Y Spellman chỉ muốn ngườì “hy sinh’ cho ngài, họ bắt đầu
    biểu-tình trưóc nhà thờ St. Patrick và tư dinh của ngài ở New York. Lần đầu tiên tên một hồng y được đặt tên cho cuộc chiến, “Spellman’s War.” Những bài viết cay đắng về ngài khá nhiều. Có một điều người dân Mỹ “cay đắng” về cuộc chiến Việt Nam: đang từ một dân tộc anh hùng kiểu “vì dân diệt bạo”, họ trỏ thành hiếu chiến hiếu sát, trong khi đó, Vatican được tiếng là rao giảng hoà bình. Ý kiến của một cựu chiến binh “Hơn 58,000 lính Mỹ không biết rằng họ chết ở Việt Nam cho Giáo Hội Ki-tô. Không đi lính, thì đi tù 5 năm. Biết vậy, tôi không đăng lính năm 1968. Tôi sẽ đi biểu-tình chống chiến tranh và ngồi tù trong danh dự để thách đố nhũng láo khoét của chính phủ về tình hình VN.
    Điều đau của quân nhân Mỹ-Việt, từ tướng cho đến quân trong cuộc chiến Việt Nam: đào ngũ thì bị tù, muốn đánh cũng không đuợc, muốn thua cũng không xong, muốn thắng lại càng khó! Chết uổng đời, sống bị phỉ nhổ! Khi siêu quyền lực muốn kéo dài chiến tranh để tiêu thụ võ khí, thì xác người chỉ là con số, Việt Nam là nấm mồ, chôn ai không cần biết.

    Trong 28 năm làm hồng y, hồng y Spellman trực tiếp can dự vào cuộc chiến Việt Nam suốt 13 năm - từ 1954 đến 1967. Tuy có tới hơn ba triệu Người Việt-Mỹ chết “Cho Ngài, Do Ngài và Vì Ngài”, mặc dù tên tuổi của ngài hình như còn rất xa lạ với người mình, ngoại trừ một số du học sinh ở Úc, Mỹ… những năm 1960, bật TV lên là thấy ngài.

    Nhưng hồng y Spellman là ai?

    [​IMG]Truyền thông Hoa Kỳ ghi chép đầy đủ cuộc đời và sự nghiệp hồng y Spellman (1989-1967). Quan điểm của những tác giả độc lập này khá khách quan, khi chỉ muốn tìm ra “sự thật”, tìm ra “mục tiêu tối thưọng” cuả sự việc. Họ không tìm cách bào chữa/tâng bốc/đạp đổ nhân vật, mà chỉ phân tích mục tiêu cho cho ra lẽ. Tác giả Avro Manhatttan còn cẩn thận viết “Đề cập đến “giáo hội Ki-Tô” cuốn sách của tôi không nhắm đến những tín đồ thuần thành, không biết chút xíu gì về những âm mưu toan tính nói trên, chỉ nói đến giới lãnh đạo cao cấp ở Vatican và những tu sĩ Dòng Tên”.

    Bài viết này chỉ nhặt những chi tiết có liên quan xa gần tới chiến tranh Việt Nam, còn những sự việc khác như ngài là người đồng tính (homo
    s.e.xual), chiếm giải quán quân trong việc phát triển giáo hội qua việc xây dựng trường học Công giáo trên toàn thế giới, thành công vượt bực trong kinh doanh “Knights of Malta”, thiết lập Ratlines giúp đám Nazis Đức Quốc Xã chạy trốn, thành tích quậy phá các xứ Trung Mỹ…không liên quan gì đến vận mệnh ngườì Việt cả.

    Có thể nói đường hoạn lộ cuả ngài thẳng băng như một cây thước kẻ.

    1. Về tôn giáo:


    Năm 1911, chủng sinh Spellman/dòng Jesuits (tức dòng Tên), 22 tưổi tu học ở Rome được hân hạnh kết bạn rất thân với Hồng Y Eugenio Pacelli. Hồng y gọi yêu cậu là “Frank hay Franny”. Trong 7 năm, hồng y Pacelli đi khắp thế giới đều mang Frank theo, từ leo núi Alps đến bãi biển Hy Lạp. Tháng 7-1932, Frank đưọc phong làm giám mục giáo phận Boston, thủ đô tiểu bang Massachssetts.Chính hồng y Pacelli, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, tấn phong cho Frank trong một buổi lễ trọng thể cử hành ở đền thờ Thánh Phêrô/St. Peter’s Basilica ở Vatican, Frank mặc aó lễ màu vàng chói mà hồng y Pacelli mặc năm xưa. Lần đầu tiên một giám mục Hoa Kỳ được hân hạnh này, giáo dân Boston nở nang mặt mũi.

    Tháng 3-1939, hồng y Pacelli được bầu làm gíao hòang Pius XII. Đúng tám tuần lễ sau, giáo hoàng Pius XII phong cho Spellman làm
    tổng-giám-mục New York, giáo phận giầu có nhất Hoa Kỳ. 20 năm sau, hồng y Spellman biến New York thành giáo phận giầu nhất thế gìới. Cùng năm 1939, Spellman đuợc phong chức tổng tuyên úy quân đội: cái vé tối danh dự đặt giám mục Spellman trên đỉnh mạng lưói siêu quyền lực gồm siêu quí tộc/tài phiệt/chính trị/tình báo/quân sự liên quốc gia có tên Sovereign Military Order of Malta, viết tắt SMOM, hội viên phải được giáo hoàng sắc phong. Nội cái tên không thôi đã nói lên mục đích của SMOM.

    Năm 1946, giáo hoàng Pius XII phong Spellman chức hồng y. Không cần mọc cánh, ngài trở thành “thiên thần” giữa Vatican và bộ ngọai giao Mỹ. Ở Mỹ, người ta linh đình chúc tụng ngài là American Pope/Giáo Hoàng Hoa Kỳ. Ở Vatican, Người ta gọi ngài là Cardinal Moneybags/Hồng Y Túi Tiền. Ngôi thánh đường Patrick ngài ngự đuợc gọị chệch đi là “Come-on-wealth Avenue/Đaị lộ Của Cải Nhào Vô” (thay vì “Commonwealth”), trở thành thời thượng. Ngài làm lễ cưới cho Edward Kennedy ở đó.

    2. Quyền lực:


    Đóng góp tài chánh của hồng y Spellman cho Vatican, tình bạn với Giáo hoàng Pius XII, vị trí chót vót trên đỉnh SMOM, quyền lực Spellman hầu như vô tận không ai dám đụng. Bạn của ngài nằm trong danh sách 100 người quan trọng nhất thế kỷ 20. Ngài giới thiệu với giáo hoàng Pius XII hàng loạt các nhà cự phú, biến họ thành quí tộc Hiệp sĩ Malta, không ai dám đụng tới. Hốt tiền chỗ này bỏ chỗ kia khéo léo như một bà chủ hụi, dưới bàn tay Spellman mọi việc trôi êm. Thay vì nộp tiền niên liễm cuả Knights of Malta- Hiệp sĩ Malta vào tổng hành dinh SMOM ở Rome, Spellman chuyển tiền đó vào tài khoản riêng cuả hồng y Nicola Canali (1939-1961) bộ trưỏng bộ ngoại giao Vatican. Vài câu hỏi yếu ớt vang lên, ngài không bận tâm trả lời. Báo nào xa gần hơi “tiêu cực” về ngài, ngài cho lệnh các cửa hàng sang trọng khu Sak Fifth Avenue rút hết quảng cáo liền một khi. Thương xá Sak Fifth/New York chỉ là một tài sản khiêm nhường của ngài, cũng như
    tổng-giám-mục Ngô Đình Thục là chủ thương xá Tax/Saigon.

    Hồng y Spellman giúp Vatican 1 triệu đô la tài trợ Công đồng Vatican II nhưng ngài không hơi sức nào bầu bạn với nhũng kẻ nghèo khó. Tháng 3/1949, hai trăm phu đào huyệt nghĩa trang Calgary - rộng 500 mẫu mà ngài là chủ nhân - đòi tăng lương 20% từ 59.40 lên 71.40 $USD (một tuần). Ngài không chấp nhận, ngày mím môi bắt các chủng sinh nhà thờ St. Patrick thay thế, đào huyệt chôn 1020 quan tài xếp lớp. Ngài đổ cho cái đám cùng khổ ấy là bọn… cộng sản. Mấy Người vợ nghèo khổ của đám phu đào huyệt mếu máo phân trần “Chồng tôi chỉ muốn tăng lương, không biết cộng sản là gì”.

    3. Về chính trị:
    [​IMG]
    Hồng y Spellman đìều khiển thế giớí bằng điện thoại. Ngài cho hay trước sẽ không ai viết được tiểu sử ngài, vì sẽ không bao giờ có dấu vết chứng từ. Ngài là cố vấn của năm đời tổng thống Mỹ từ 1933 đến 1967, từ Roosevelt, Truman, Eisenhower, Kennedy đến Johnson. Ngài là bạn thân với tưóng William Donovan - xếp sòng OSS, tiền thân CIA. Donovan chỉ định Allen Dulles nối ngôi CIA, nên hai anh em nhà Dulles, bộ trưởng ngoại giao và giám đốc CIA, cũng dưới tay ngài.

    Một trong những ngưòi bạn danh giá là đại gia Joseph Kennedy, thân phụ của thượng nghị sĩ trẻ tuổi John Kennedy/tiểu bang nhà, Mass. Năm 1935, taì sản ông Kennedy đã lên tới $180 triệu đô la, khoảng 3 tỷ bây giờ. Sau thế chiến II, một trong những chiến lược của Vatican trong việc ngăn chặn cộng sản bằng cách ủng hộ các ứng viên phe Dân Chủ Ki-Tô giáo. Đang khi Vatican muốn có một tổng thống Ki-tô ở tòa Bạch Ốc, đúng lúc Joseph Kennedy muốn John Kennedy làm tổng thống. Giáo hoàng Pius XII gưỉ bác sĩ riêng Riccardo Galeazzi đến gặp Spellman và Joseph Kennedy để thương lượng. Có tiền mua chức tổng thống dễ như mua bắp rang.
    Những yếu tố trên chín mùi cùng lúc, Spellman dựa vào Vatican dựng lên hai tổng thống Ki-tô dân chủ đầu tiên: John F. Kennedy ở Washington D.C cũng như Ngô Đình Diệm trước đó ở Saigon.

    Tài liệu ngoại quốc không có những chi tiết như trong bài viết “Có phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hoà VN” cuả Linh mục An-Tôn Trần Văn Kiệm. LM là người duy nhất ở gần ông Ngô Đình Diệm trong hơn hai năm ông Diệm ở Mỹ, Theo Linh mục, có ba người đưọc hồng y Spellman bảo trợ, nhận làm con nuôi: hai linh mục Trần Văn Kiệm-Nguyễn Đức Quý và ông Ngô Đình Diệm.
    (Ghi chú: ông Ngô Đình Diệm có tói ba vị “cha nuôi” oai quyền một cõi: thượng thư Nguyễn Hữu Bài, Hồng y Spellman và trùm CIA Allen Dulles)

    Năm 1951, đang ở New York, Linh mục Trần Văn Kiệm, được điện tín từ Âu châu ra đón
    tổng-giám-mục Ngô Đình Thục và em là Ngô Đình Diệm taị phi trường Idlewild (phi trường Kennedy bây giờ). Sau đó Hồng y Spellman gửi ông Diệm trú taị nhà dòng các linh mục Maryknoll, New Jersey. Tuy đuợc Hồng y Spellman giầu có bảo trợ, ông Diệm không đưọc Hồng y cho đồng xu nào. Suốt hai năm, chỉ một mình Linh mục Kiệm thăm viếng, bao biện việc di chuyển, kể cả thuê khách sạn cho ông tiếp khách vì biết ông rất thanh bạch. Cho đến tháng 6/1953, ngày ông từ giã Hoa Kỳ qua Pháp gặp hoàng đế Bảo Đại trước khi về VN nhận chức thủ-tướng Linh mục M Trần Văn Kiệm và năm Người bạn còn chạy mua vội cho ông chiếc cà vạt màu xanh.

    Tuy vậy, theo linh mục Trần Văn Kiệm, mãi đến giữa năm 1953, chính giới Mỹ chẳng biết gì về ông Ngô. LM TVKiệm viết:

    -”Có lần chính khách Mỹ phàn nàn với tôi: linh mục đề cao tư cách lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm, và cả Đức Cha Ngô Đình Thục cũng làm như thế, nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì Đức Cha Thục là anh đề cao em thì có chi là lạ”.


    -”Mãi tới gần một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ lớn ngày 13 tháng 3 năm 1954 (thất thủ ngày 26 tháng 6) (1) và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng y Francis Spellman kêu gọi, ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống Eisenhower mới lên tiếng cảnh giác, khi ông xướng lên chủ thuyết Domino: “Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công Cộng sản quốc tế với Liên Xô và Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông Nam Á sẽ khó mà đứng vững được”.

    Hồng Y Spellman Dựng nên Đệ Nhất Cộng Hòa VN


    Một chân ở điện Capitol, một chân ở Vatican, hồng y Spellman ảnh hưởng cả tổng thống Mỹ, sai khiến được trùm CIA, hoạch định chính sách cho bộ ngoại giao, nên ngài yên chí sẽ được bầu làm giáo hoàng ở Vatican khi bạn thân ngài là giáo hoàng Pius XII qua đời. Không ngờ, ngày 28-10-1958, người đựợc bầu là Hồng Y Angelo Roncalli, tức Giáo hoàng John XXIII. Hồng y Spellman giận lắm, nhiếc sau lưng ông: “Ông ta đâu xứng làm Giáo Hòang, Ổng đáng đi bán chuối/He’s no Pope. He should be selling bananas”.

    Hồng y Spellman có vẻ như lập laị câu nói cuả Cesar “Veni, Vidi, Vici”. Những năm 1950, chính khách Mỹ nói về châu Á còn lọng cọng dở bản đồ, Spellman đã đi qua cả rồi. Năm 1948, ngài đỡ đầu cho linh mục Fulton Green qua Australia đọc diễn văn tại nhà thờ St. Mary’s ở Sydney. Spellman ghé Singapore và Bangkok, bay ngang Angkor Wat. Trên đưòng trở về Mỹ, trứơc khi bay qua Canton và Hongkong, ngài tiện chân ghé Saigon,
    tổng-giám-mụcSaigon người Pháp Jean Cassaigne có mời tổng-giám-mục Vĩnh-Long Ngô Đình Thục trong buổi tiếp đón ngày 25-5-1948: từ buổi “tiện chân”định mệnh này, số phận cuả dòng họ Ngô-Đình đã an bài.

    Giới học thuật Mỹ - tôn giáo, chính trị, truyền thông, giáo dục - đồng ý dứt khóat 100% về vai trò của Hồng Y Spellman trong việc dựng lên tổng thống Ngô Đình Diệm. Xin chỉ giới hạn vào bốn tác giả mà sách của họ đã được thử thách với thờì gian. Trong số bốn Người này, hai là linh mục Ki-tô giáo:

    - Theo Wilson D Miscamlble, giáo sư môn sử/đaị học Notre Dame/Indiana, trong bài viết“Francis Cardinal Spellman and Spellman’s War”, lý do người Mỹ nhúng tay vào chiến tranh VN bắt nguồn từ ChiếnTranh Lạnh kéo dài từ châu Âu. Dưới ảnh hưởng vô cùng to lớn của Spellman, chính giới Mỹ đều tin tưởng rằng sự bành trướng của khối Cộng Sản Liên Sô và đồng minh của họ, Bắc VN, là mối đe dọa trực tiếp nước Mỹ.

    - “The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”, tác giảJohn Cooney (cây bút cuả Wall Street Journal) viết: “Nếu không có Spellman ủng hộ Ngô ĐìnhDiệm hồi 1950, chắc chắn không có chính phủ miền Nam Việt Nam.” Cooney dành 18 trang riêng về Spellman và Việt Nam. Tờ Church & State phê bình “dẫn chứng kỹ càng, tất cả người Mỹ nên đọc và học hỏi”

    - “An American Requiem/Kinh Cầu Hồn Nước Mỹ”, tự truyện, tác giả James Carrollcó bố là trung tá tình báo Pentagon: chuyên viên tìm toạ độ để ném bom ở Việt Nam, mẹ lại là bạn thân cuả hồng y Spellman. Ông viết “Chiến tranh VN bắt đầu từ Spellman”, sách-bán-chạy nhất 1960-70, đoạt National Book Award for Non-Fiction (1996), giải thưởng cao quí nhất cuả văn học Mỹ. Carroll dành nguyên chương 8, “Holy War/Cuộc Chiến Thần Thánh” cho chiến tranh Việt Nam.

    - Theo linh mục Martin Malachi: Spellman dấn thân vào Việt Nam là theo ý muốn của Giáo Hoàng Pius XII: muốn ngưòi Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm lên vì ảnh hưởng của
    tổng-giám-mục lý tưởng tự do, Người quốc gia…”. USAID cũng bao dàn trọn gói luôn tờ The Times bằng tiếng Anh của ông Ngô Đình Nhu.
    - Theo linh mục Martin Malachi: Spellman dấn thân vào Việt Nam là theo ý muốn của Giáo Hoàng Pius XII: muốn ngưòi Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm lên vì ảnh hưởng của tổng-giám-mục Ngô Đình Thục.
    (Ghi chú: Linh-mục Malachi, giáo sư Giáo hoàng Học Viện Vatican (Pontifical Biblical Institute) từ 1958 đến 1964, cùng thờì điểm chìến tranh Việt Nam. Ông là phụ tá, thư ký riêng, thông dịch viên cho hồng y Augustin Bea/dòng Jesuit và cho Giáo hoàng John XXIII. Ông ở cùng dinh vơí giáo hoàng John XXIII, được giao phó nhiều việc “nhậy cảm. Là linh mục dòng Jesuits/dòng Tên trong 25 năm, năm 1965 ông xin chấm dứt ơn kêu goị, nghiã là ra khỏi dòng Jesuits. Ông qua New York, sống lang thang làm bồi bàn, tài xế taxi, rửa chén. Hai năm sau ông bắt đầu kiếm ăn bằng viết sách. Cuốn nổi tiếng nhất: “The Jesuits: The Society of Jesus and the Betrayal of the Roman Catholic Church/ Dòng Jesuit và Sự Phản Bội Của Giáo Hội La Mã”).
    (Cả ba cuốn The American Pope, An American Requiem, The Jesuits đều có trên amazon.com.)
    [​IMG] [​IMG] [​IMG]
    Có thể tóm tắt: đưọc các nhân vật tối cao cuả lập pháp, tư pháp, tình báo, taì phiệt và tôn giáo Hoa Kỳ đã nâng đỡ con đường hoạn lộ cuả ông quan Á Châu Ngô Đình Diệm giống như truyện cổ tích Cô Bé Lọ Lem, ngọai trừ đoạn cuối.

    1. 1951: taị New York, Hồng Y Spellman giới thiệu ông quan-tự lưu vong-Ngô Đình Diệm với chính giới Mỹ, gồm thượng nghị sĩ Michael Mansfield, thẩm phán tối cao pháp viện William O. Douglas, trùm CIA Allen Dulles, cha con Joseph Kennedy, tất cả là tín đồ công giáo.

    2. 1954: CIA gửi Edward Landsdale qua Saigon hóa phép “trưng cầu dân ý” truất phế Baỏ Đaị-ủng hộ thủ tứơng NĐDiệm. Landsdale đề nghị tỷ lệ đắc cử là 70%, ông Diệm không đồng ý, đòi phải đạt được 92.2%, con số cao hơn cả số cử tri ghi danh.

    3. 1955: Bộ Ngoaị Giao gửi đoàn cố vấn dân sự qua Saigon (giáo sư Wesley Fishel/đại học Michigan cầm đầu) soạn cấu trúc cho an ninh, kinh tế, giáo dục, hành chánh, soạn cả hiến pháp cho Việt Nam Cộng Hòa. Cơ quan USAID/Sở Thông tin Hoa Kỳ phát không tờ Thế Giới Tự Do, lò sản xuất những khẩu hiệu như “tiền đồn chống C ộng lý tưởng tự do, Người quốc gia…”. USAID cũng bao dàn trọn gói luôn tờ The Times bằng tiếng Anh của ông Ngô Đình Nhu.

    4. 1955: chính phủ Eisenhower tài trợ 20 triệu đô la cho quĩ [Roman] Catholic Relief Services , “Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo”. Hồng y Spellman cũng đích thân viếng Saigon và tặng $100,000 cho quỹ này, giúp tái định cư ngưòi di cư (có tài liệu ghi $10,000). Từ đó mỗi năm, Hoa Kỳ viện trợ khoảng 500 triệu đô la một năm cho Việt Nam Cọng Hòa.

    5.
    Ngoài cố vấn Mỹ chính thức tạị dinh Độc Lập, Spellman còn gàì điệp viên kiểm soát hai anh em ông Diệm-Nhu.

    6.
    Từ đầu năm 1963, Spellman bắt đầu tách rời khỏi Ngô Đình Diệm khi chính phủ Diệm từ chối không cho thêm quân nhân Hoa Kỳ vào Việt Nam.

    7.
    Ngày 7-9-1963
    tổng-giám-mục Ngô Đình Thục rời Việt Nam qua Roma, bước lưu vong đầu tiên, không được giáo hoàng Paul VI tiếp. Ngày 11-9-1963 Ngô Đình Thục bay qua New York cầu cứu, hồng y Spellman lánh mặt đi Miami Beach/Florida dự lễ gắn huy chưong.

    8.
    Ngày 1-11-1963: Spellman bật đèn xanh cho âm mưu dứt điểm con nuôi Ngô Đình Diệm. Từ đó, Spellman không hề nhắc đến tên Thục-Diệm thêm một lần nào nữa.

    9.
    Spellman tiếp tục đìều khiển guồng máy chiến tranh Việt Nam không-Diệm cho đến khi về hưởng nhan thánh Chuá năm 1967.

    Hồng Y hay đaị tướng?


    Đáng lẽ Hồng y Spellman phải theo nghiệp binh đao. Năm 1943, chỉ trong bốn tháng, ngài vượt 15,000 miles, đến 16 quốc gia vừa là đại diện của Vatican, vừa là tổng tuyên uý quân đội, vừa là đặc sứ cuả tổng thống Roosevelt. Ngài khéo léo luôn để Vatican đứng ngoài, và đứng trên chìến tranh. Ngài đuợc West Point trao tặng huy chương. Ngàì có bằng lái máy bay cả ở Italy lẫn Massachussets.

    Fidel Castro mô tả hồng y Spellman là “Giám mục của Ngũ Giác Đài, của CIA và FBI”. Tổng thống Mỹ còn sợ bị ám sát, Spellman thì không. Trong cuốn “Vietnam… Why Did We Go? "Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam” tác giả Avro Manhattan chứng minh “siêu quyền lực” giết tổng thống John Kennedy chính là Hồng y Spellman. Bản dịch tiếng Việt, có trên internet, dịch giả Trần Thanh Lưu.
    [​IMG][​IMG][​IMG]

    Hậu thuẫn lớn của hồng y Spellman cho chính quyền Lyndon Johnson không phải ở châu Mỹ La Tinh, mà ở Việt Nam. Dù ở tuổi nào ngài cũng thich làm “anh là lính đa tình”. Ngaì thường xuyên gặp gỡ các ông tướng ở tòa Bạch Ốc, có mặt tại những phiên họp mật của tình báo. Ngài họp với Ngũ Giác Đài, bàn cãi chiến thuật/chiến lược với hàng tướng lãnh. Phiên họp cuối ngài tham dự, tháng 3/1965, tại Carlisle một trưòng huấn luyện quân sự ở Pensylvania. Ngài cho tiền các giáo hội địa phương, nguồn cung cấp tin tức vô tận. Khi cần ngài hỗ trợ cho CIA và FBI khiến hai cơ quan này khép nép dưới chân ngài. Họ không sao có được mạng lướí rộng lớn, miễn phí và trung thành như giáo dân. Trong khi hồng y Spellman chỉ phán một câu, các giáo hội địa phương xa xôi nghèo nàn mừng mừng tủi tủi, vứt cả tổ tiên ứng hầu thánh ý.

    Linh mục William F. Powers viết
    “Hình như Hồng Y Spellman đến Việt Nam để ban phép lành cho những khẩu đại bác, trong khi giáo hoàng John 23 đang năn nỉ phải cất chúng đi. Ngài sang thăm lính Mỹ ở Việt Nam trong binh phục kaki vàng. Có lần, vừa trở về từ mặt trận VN, “áo anh mùi thuốc súng” ngài lập tức bay đến Washington dùng cơm trưa với tổng thống Johnson, có cả mục sư Billy Graham (đuợc coi như Giáo hoàng Tin Lành ở Mỹ). Tổng thống hỏi ý cả hai ngài bước kế tiếp phải làm gì. Trong khi mục sư Graham còn đang lúng túng giữ yên lặng, HY Spellman không ngần ngaị, nói liền một câu lạnh cẳng “Thả bom chúng! Chỉ việc thả bom chúng!” (2) Và Johnson đã làm theo lời cố vấn cuả ngài. [Thus, when Johnson asked both Spellman and Billy Graham at a luncheon what he should do next in Vietnam, Graham was uncomfortably silent. “Bomb them!” Spellman unhesitatingly ordered. “Just bomb them!”And Johnson did]. Chúng là ai? Là người Việt. Chưa được đọc bài nào của tác giả Việt về câu nói kinh hãi này. Chỉ mới thấy tác giả Nguyễn Tiến Hưng giận dữ về câu “Sao chúng nó không chết phứt đi cho rồi” cuả ông Henry Kissinger.

    Billy Graham (1918-) đâu phải tay mơ. Ông được coi như “giáo hoàng Tin Lành,” cố vấn các tổng thống Mỹ từ đời Eisenhower đến G. Bush. Ông rất oai, quở trách tổng thống Richard Nixon như con cái trong nhà. Có lẽ thấy Spellman ngon lành quá, Graham bắt chưóc y chang khiến ông cũng rất nổi tiếng trong quân sử Hoa kỳ với lá thơ 13 trang: Năm 1969 Graham đến Bangkok gặp gỡ vài “nhà truyền giáo” từ VN qua. Các đaị diện Chúa sau khi làm dấu thánh giá, đề nghị nếu hội nghị hoà bình Paris thất bại, Nixon nên dội bom các đê điều ở Bắc Việt. Không rõ các nhà truyền giáo này kiêm điệp viên hay điệp viên kiêm nhà truyền giáo, họ là người Việt hay ngưòi ngoaị quốc, thuộc dòng nào, từ đâu qua Bangkok gặp Graham… rất tiếc bản tin không nói rõ. Trở về Mỹ, Billy hăng hái gửi 13 trang viết tay đề ngày 15-4-1969 cho tổng thống Nixon “
    dội bom các đê Bắc Việt Nam, chỉ trong một đêm thì kinh tế ở đó tiêu đìều liền hà”. Bức thư này đuơc bạch hóa tháng 4/1989.

    Tạ ơn Chúa, Alleluia!! “Dội bom đê điều” giết cả triệu dân là tội ác chiến tranh! Người Mỹ phải hành quân đáng mặt nưóc lớn. Họ không quên án lệ Arthur Seyss-Inquart, luật sư ngườì Đức, sĩ quan Phát xít cuả Hitler. Ngày 16-10-1946, toà án quốc tế xử treo cổ ông này và 10 người khác vì phá hủy đê ở Hoà Lan trong thế chiến II. Trưóc khi chết, Seyss-Inquart còn nói kiểu sân khấu: “Hy vọng cuộc hành hình này là thảm kịch cuối cùng cuả thế chiến II mà bài học sẽ là hoà bình và hiểu biết giữa con người.” Tử tội xin “trở laị đạo”, đuợc xưng tội và chiụ đủ các phép bí tích. Kể cũng hay, giết ngưòi xong xưng tội là linh mục tha tội ngay, Chúa có tha không tính sau. Có hơi thắc mắc không biết ông có tái sinh làm Ki-tô hữu chưa.


    Wilson D. Miscamble kết luận về “sự nghiệp” cuả hồng y Spellman như sau:

    Lòng ái quốc mù quáng đã ngăn cản ông tự hỏi một điều rất quan trọng “mục đích của chiến tranh là
    gì?”Ông cũng không thèm biết đến “phương tiện và hậu quả”.
    Ông không hề biết rằng những báo cáo của chính phủ về Việt Nam là lừa gạt.

    Ông không bao giờ biết đến nhân mạng và tiền bạc trả cho cuộc chiến tính đến 1967.

    Ông cũng không bao giờ phản đối cách nước Mỹ tiến hành cuộc chiến. Ngược lại ông là người cổ võ việc ném bom Bắc Việt Nam.

    Cuối cùng, ông không bao giờ tỏ ý hối tiếc về vai trò cuả ông. Sự thiệt hại nhân mạng do việc dội bom cũng không hề dấy lên trong ông bất cứ một tình cảm nào. Đó là điều đáng trách nhất, vì ông là một đấng chủ chăn
    .

    Theo "nhà tranh đấu" Lê Thị Công Nhân:

    “Sự kiện 30-4-75 thì tôi không phải là chứng nhân của sự kiện đó vì tôi sinh ra vào năm 1979 nhưng với những gì mà tôi trực tiếp trải qua, và tôi chịu đựng trên đất nước Việt Nam, tôi thấy đây là 1 sự kiện hết sức đặc biệt và cá nhân tôi nghĩ rằng
    đây là sự an bài nghiệt ngã của Đức Chúa Trời dành cho dân tộc Việt Nam”.

    Cứ dâng vạn nỗi đau thương lên cho Chúa, người cũng sẽ im lặng như ngàn năm nay, như khi dân Do Thái cuả Chúa bị tận diệt. Đổ cho Chúa, Việt C ộng mừng vì
    “Chúa an bài như thế, khỏi tranh đấu nữa”. Hồng y Spellman mừng, Cộng sản quốc tế mừng, tư bản mừng! Cứ làm đi rồi đổ hô cho Chúa. Nhưng một khi bom đạn và tổn thất sinh mạng cân đong đo đếm được thì nguyên nhân/thủ phạm cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Dù không làm kẻ chết sống lại, người mù sáng mắt, nhưng ít ra học được vô số bài học. Nếu không, chắc chắn quá khứ sẽ lập lại thêm lần nữa.

    Có khi đang lặng lẽ xảy ra cũng nên!


    Trần Thị Vỉnh Tường
    tạp chí SàiGòn Nhỏ, số 1265, ngày 22 tháng 10 năm 2010, Ấn bản Orange County, trang A1
    (1) Đúng ra là ngày 7 tháng 5, 1954 theo nhiều tài liệu sử. Xem "1945-1964 Việc Từng Ngày- Hai Mươi Năm Qua" của Đòan Thêm, Los Alamitos, CA: Xuân Thu, trang 146.​
    (2) Trước kia, vào khỏang tháng 4, 1954, Giáo Hòang Pius XII (1939-1958) cũng đã đề nghị Hoa kỳ dụng từ 1 đến 6 trái bom nguyên tử thuộc lọai 31 kiloton để giải vây cho liên quân Pháp Vatican tại Điện Biên Phủ. (Avro Manhattan, "Vietnam Why Did We Go?". Tài liệu: Chino, CA: Chick Publications, 1984), trang 72. Xem thêm Bản dịch của chương 9 The Pius-Spellman-Dulles Secret Scheme Kế Hoạch Bí Mật của Pius - Spellman - Dulles


  9. minae1971

    minae1971 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/11/2003
    Bài viết:
    144
    Đã được thích:
    0
    Cái tôn giáo bị chính trị hoá nhiều nhất tại Việt Nam bây giờ là gì biết không ?

    Cái tôn giáo gì mà huy động được 1 chuyên cơ bằng tiền Nhà nước, rước theo 30 phu nhân cấp cao các loại đi hành hương ?

    Trong khi ấy thì bao người đang khốn khổ mòn mỏi vì bão lũ, vì không có tiền khám chữa bệnh, vì trường học đổ nát. Đến lúc bị người ta nói cho lại mở mồm cãi xoen xoét: "Con cái làm ăn ra tiền, cúng bố mẹ mấy chục tỉ để bố mẹ thuê xe đi chơi thì có sao ?"

    Cái tôn giáo gì mà giáo sĩ ngang nhiên ra vào họp hành các cơ quan Nhà nước, như thể đấy là 1 bộ phận của Nhà nước.

    Cái tôn giáo gì mà mở mồm ra là cầu siêu, nhưng ai chẳng biết đó là hình thức cầu tài cầu lộc cho các vận động viên kỳ Olympic tháng 1/2010 sắp đến ?

    Cái tôn giáo gì mà chẳng hề thấy răn bảo tín đồ của mình làm điều thiện, nhưng thấy lợi là cười híp mắt, thấy lễ vật hậu hĩnh làm ôm chầm lấy, là bá vai cưởi hỉ hả với các quan to ? Tôn giáo mà không răn bảo tín đồ của mình thì khác gì cục *** ?

    Cái tôn giáo gì mà lại tự đập phá tan nát ngay cả những di sản kiến trúc, thờ tự của mình do tiền nhân để lại, để rồi biến tất cả thành một mớ "tôn tạo" lai căng, rởm rít, tốn kém, hơm hĩnh ?

    Cái tôn giáo gì mà dắt tay cả lũ côn đồ ngoài xã hội, lũ cướp đêm và lũ cướp ngày vào đánh chửi, hành hung, hắt *** đái, bóp hạ bộ cả những người đồng đạo của mình, chỉ vì họ là những người chân tu rao rảng điều thiện và thu hút nhiều tín đồ hơn chúng ?

    Cái tôn giáo gì mà sẵn sàng bẻ cong lịch sử, về hùa a dua với lũ cướp ngày để đi tranh chấp những miếng đất mà họ chẳng hề có giấy tờ chủ quyền, mà nếu thực là của họ thì họ cũng chẳng giữ nổi từ 500 năm nay rồi.

    Mà nguy nhất, cái tôn giáo gì mà quá nửa giáo sĩ đồng thời cũng mang quân hàm, hàng ngày đi báo cáo tình hình, rồi nhậu nhẹt, rồi chơi gái ?

    Tiếc thay, cái tôn giáo ấy vốn dĩ là hiện thân của chân, thiện, mỹ ở đất nước này, và vẫn là hiện thân của chân, thiện, mỹ tại các quốc gia khác.

    Vì đâu mà đến nông nỗi này ?
  10. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1

    Định viết mấy dòng nhưng ý tưởng cũng trùng với ông bạn này!
    Xét cho cùng, tôn giáo đôi khi chỉ là 1 lá bài. Trách lá bài hay người chơi bài?

Chia sẻ trang này